CTTĐT - Những năm qua, giáo dục nghề nghiệp (GDNN) ở nước ta đang từng bước đổi mới, đạt được những kết quả khả quan. Nhận thức của xã hội, người dân, doanh nghiệp về giáo dục nghề nghiệp có những chuyển biến tích cực; số lượng người tham gia vào giáo dục nghề nghiệp ngày càng tăng. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa với nhiều cơ hội và thách thức, giáo dục nghề nghiệp ở nước ta cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa để không chỉ đảm đương trách nhiệm đào tạo nhân lực trực tiếp phục vụ cho sản xuất - kinh doanh mà còn đáp ứng yêu cầu hội nhập, cạnh tranh.
Ứng dụng công nghệ thông tin được đẩy mạnh trong mọi hoạt động từ quản lý, quản trị, chỉ đạo điều hành tới hoạt động dạy và học.
Giáo dục nghề nghiệp có vai trò quan trọng đối với đào tạo nhân lực trực tiếp trong sản xuất - kinh doanh, dịch vụ, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đối với quá trình hội nhập. Những năm qua, công tác GDNN ở nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức của xã hội, người dân, doanh nghiệp về GDNN có bước chuyển biến tích cực; số lượng người tham gia vào GDNN ngày càng tăng; tỷ lệ người học sau tốt nghiệp có việc làm cao, thu nhập ổn định.
Để tạo điều kiện cho hoạt động GDNN phát triển, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Luật Giáo dục năm 2005 đã có một mục riêng quy định về GDNN. Năm 2006, Luật Dạy nghề được ban hành, tạo nền tảng pháp lý thuận lợi cho hoạt động đào tạo nghề phát triển phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước. Tiếp đó, năm 2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật GDNN với nhiều đổi mới quan trọng và đột phá nhằm thể chế hóa mạnh mẽ chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện GDNN, giải quyết các bất cập trong thực tiễn, tạo nên diện mạo mới của hệ thống GDNN ở Việt Nam.
Luật GDNN năm 2014 đã hình thành hệ thống GDNN trong hệ thống giáo dục quốc dân, quy định rõ 3 cấp trình độ đào tạo là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, đáp ứng yêu cầu về cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế trong giai đoạn mới. Đồng thời, thể hiện sự đổi mới về tổ chức và quản lý đào tạo, về chính sách cho người học, nhà giáo và cơ sở GDNN; bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa GDNN, tăng cường sự phối hợp, tham gia của doanh nghiệp, người sử dụng lao động vào hoạt động đào tạo, gắn đào tạo với nhu cầu thị trường lao động và xã hội.
Ngay sau khi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao nhiêm vụ quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp (GDNN), trong thời gian ngắn, hệ thống thể chế hướng dẫn thực hiện Luật GDNN đã xây dựng, tham mưu trình ban hành cơ bản hoàn thiện.
Đồng thời, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách đã chủ động đề xuất những quy định mới, chính sách mới từ tổ chức, quản lý hệ thống cho tới quản trị cơ sở GDNN; đổi mới tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo; bổ sung cơ chế, chính sách ưu tiên, ưu đãi cho nhà giáo, người học tạo khung pháp lý để tổ chức, quản lý và triển khai đào tạo theo ba cấp trình độ cao đẳng, trung cấp và sơ cấp...
Nhiều quy định, chính sách mới về phát triển GDNN đưa vào Luật Giáo dục và Bộ luật Lao động. Qua đó, tạo nền tảng vững chắc để ổn định và phát triển GDNN đáp ứng yêu cầu nhân lực trực tiếp cho phát triển đất nước. GDNN đã từng bước tạo niền tin với xã hội về vai trò, trách nhiệm của mình trong sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng.
Sau hơn 20 năm kể từ khi tái lập Tổng cục Dạy nghề (nay là Tổng cục GDNN), lần đầu tiên, Quốc hội đã chính thức phân công Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý nhà nước về GDNN trong Luật Giáo dục sửa đổi, bổ sung năm 2019.
Việc quy hoạch lại mạng lưới cơ sở GDNN bảo đảm tinh gọn, cơ cấu hợp lý, hoạt động hiệu quả được xem là một trong những giải pháp quan trọng để sắp xếp lại hệ thống GDNN. Nhờ sự nỗ lực và tích cực trong đổi mới, chúng ta đã hình thành mạng lưới các cơ sở đào tạo nghề nghiệp rộng khắp cả nước, đa dạng về loại hình và ngành nghề đào tạo. Quy mô và chất lượng đào tạo nghề không ngừng tăng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của người dân, góp phần tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo.
Đến nay, nhận thức của xã hội về giáo dục nghề nghiệp đã có nhiều chuyển biến. Ngày càng nhiều gia đình chọn trường nghề cho con em theo học. Nhiều người học đủ điểm học đại học hoặc đã tốt nghiệp bậc đại học cũng đã lựa chọn trường nghề để học tập, rèn luyện thêm kỹ năng; hệ thống các cơ sở GDNN tin tưởng, hào hứng với khí thế mới, đồng lòng vì sự phát triển của GDNN.
Trong giai đoạn 2017-2019, ba năm liên tiếp, GDNN đều tuyển sinh vượt kế hoạch. Với các trường có uy tín và thương hiệu, tuyển sinh đầu vào đã có sự lựa chọn bằng điểm sàn.
Kết quả phân luồng sau trung học, đặc biệt là sau THCS đã có sự chuyển biến rõ rệt. Nhiều vùng, nhiều địa phương có tỷ lệ phân luồng cao, tính trung bình cả nước đạt 15%.
Năm 2020, trong bối cảnh khó khăn do dịch bệnh, tuyển sinh vẫn có những tín hiệu tốt và có thể đạt chỉ tiêu kế hoạch. Kết quả tuyển sinh khẳng định sự tin tưởng của người học, của xã hội với GDNN về học nghề, lập nghiệp.
Từ kinh nghiệm và thực tiễn đã xuất hiện những tư duy sáng tạo, cách làm mới để phát triển hệ thống GDNN mở, linh hoạt đáp ứng với nhu cầu của người học, của doanh nghiệp, của thị trường lao động. Nhiều mô hình mới, cách làm mới, sáng tạo đã tạo đột phá trong GDNN như mô hình 9+ dành cho học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS) vào học nghề; mô hình đào tạo chất lượng cao theo các chương trình chuyển giao từ nước ngoài; mô hình tuyển sinh gắn với tuyển dụng, thực hành là sản xuất sản phẩm, thành lập hội đồng kỹ năng ngành, công nhận đại sứ nghề...
Gắn kết GDNN với doanh nghiệp đã được thúc đẩy mạnh mẽ, doanh nghiệp đã tham gia sâu vào các hoạt động GDNN. Qua đó, đã triển khai xây dựng chương trình và tổ chức đào tạo kỹ năng quản lý đào tạo, kỹ năng dạy học cho cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp, tạo tiền để để hình thành mô hình doanh nghiệp là nhà trường thứ hai. Qua đó thu hút mạnh mẽ doanh nghiệp tham gia vào GDNN...
Năm 2020, theo báo cáo chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, chỉ số doanh nghiệp có tham gia đào tạo chính thức của Việt Nam xếp hạng thứ 66 tăng 4 bậc so với năm 2019.
Ứng dụng công nghệ thông tin được đẩy mạnh trong mọi hoạt động từ quản lý, quản trị, chỉ đạo điều hành tới hoạt động dạy và học... đã làm thay đổi về chất và lượng từ bên trong của hệ thống GDNN. Đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh Covid -19, đã thể hiện được khả năng ứng phó của GDNN trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển từ trực tiếp sang trực tuyến để thực hiện tuyển sinh, đào tạo và quản lý, chỉ đạo điều hành.
Chất lượng, hiệu quả GDNN từng bước được cải thiện. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp có việc làm sau tốt nghiệp đạt 85%, một số ngành nghề tỷ lệ đạt 100% với mức thu nhập bình quân 7-10 triệu đồng/tháng, đối với các ngành nghề trọng điểm, chất lượng cao thu nhập từ 15-20 triệu đồng/tháng. Đã xuất hiện những học sinh, sinh viên tiêu biểu về học nghề, lập nghiệp, khởi nghiệp thành công sau tốt nghiệp và ngay cả khi còn đang học.
Trong các kỳ thi kỹ năng nghề ASEAN và thế giới, thành tích của các thí sinh luôn được cải thiện. Năm 2019, lần đầu tiên Việt Nam dành huy chương Bạc tại Kỳ thi kỹ năng nghề thế giới tổ chức tại LB Nga, xếp thứ 25/63 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia dự thi. Năm 2019, Diễn đàn Kinh tế thế giới đã xếp hạng chất lượng đào tạo GDNN tăng 13 bậc.
Bên cạnh đó, việc tăng cường gắn kết với doanh nghiệp trong tổ chức đào tạo, giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp bước đầu đi vào chiều sâu, hoạt động hiệu quả. Cơ chế phối hợp ba bên: Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp bắt đầu hình thành và vận hành khá tốt trong thực tiễn… Xác định gắn kết với doanh nghiệp là một trong 3 đột phá để đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN, từ năm 2016 đến nay, nhiều hoạt động gắn kết với DN đã được triển khai. Đặc biệt, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 29/2017/TT-BLĐTBXH ngày 15/12/2017 quy định về liên kết tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, khuyến khích các cơ sở GDNN và DN liên kết để tổ chức đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, trong đó doanh nghiệp có thể đảm nhận giảng dạy đến 40% thời lượng của chương trình đào tạo.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp còn tham gia hoạt động GDNN từ việc tham gia xây dựng chuẩn đầu ra, xây dựng chương trình, tham gia đào tạo, đánh giá người học cho đến tuyển dụng và việc làm với nhiều hình thức khác nhau như: liên kết đào tạo, đào tạo tại DN, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động…
Những kết quả trên khẳng định GDNN đã có bước chuyển quan trọng về chất và lượng, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển đất nước.
Để tranh thủ thời cơ dân số vàng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 28/5/2020 về đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới.
Chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành địa phương tập trung chỉ đạo triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát triển GDNN, phát triển nhân lực có kỹ năng nghề.
Đồng thời, tăng cường chuyển đổi số và đào tạo trực tuyến, chú trọng đào tạo lại và đào tạo thường xuyên lực lượng lao động để tạo chuyển biến mạnh mẽ về quy mô, chất lượng và hiệu quả của GDNN; bảo đảm người học có kỹ năng chuyên môn, kỹ năng số, kỹ năng mềm, kỹ năng khởi nghiệp và ngoại ngữ... thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động.
Chú trọng nội dung phát triển GDNN, phát triển nhân lực có kỹ năng nghề trong các kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển ngành, địa phương; ưu tiên phân bổ ngân sách cho GDNN trong tổng chi ngân sách nhà nước dành cho giáo dục, đào tạo và trong các chương trình, dự án của ngành, địa phương; thí điểm đào tạo trình độ cao đẳng cho học sinh tốt nghiệp THCS; tiếp tục triển khai các chương trình chuyển giao từ nước ngoài có hiệu quả để nhân rộng trong hệ thống GDNN.
Trong bối cảnh hiện nay, trước sự vận động, phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ và tri thức nhân loại, đặc biệt là trước yêu cầu của toàn cầu hóa, quốc tế hóa - những xu thế vừa là thời cơ, vừa là thách thức, GDNN Việt Nam cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ để không chỉ đảm đương được trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng nhân lực trực tiếp phục vụ cho sản xuất - kinh doanh mà còn đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng, nhất là các điều kiện về chương trình, giáo trình, về nhà giáo, cán bộ quản lý; về cơ sở vật chất, thiết bị phù hợp với đặc thù Việt Nam và tiếp cận các nước trong ASEAN-4 cũng như các nước phát triển trong nhóm G20. Cụ thể: đổi mới chương trình đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra trên cơ sở tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, có sự tham gia của hiệp hội nghề nghiệp, DN, đơn vị sử dụng lao động phù hợp với chương trình đào tạo; xây dựng chương trình liên thông giữa các cấp trình độ đào tạo trong cùng ngành, nghề hoặc với các ngành, nghề khác hay liên thông lên trình độ cao hơn. Đổi mới tổ chức đào tạo, áp dụng công nghệ đào tạo tiên tiến của các nước phát triển, ứng dụng đồng bộ công nghệ thông tin trong dạy - học, quản lý đào tạo; thí điểm thuê chuyên gia nước ngoài đào tạo trong một số ngành, nghề chất lượng cao cần đạt chuẩn quốc tế mà trong nước chưa đáp ứng được. Đổi mới hình thức và phương pháp thi, kiểm tra đánh giá: khuyến khích sự tham gia của DN, đơn vị sử dụng lao động, các hiệp hội nghề nghiệp trong đánh giá kết quả đào tạo của cơ sở GDNN.
Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GDNN. Chuẩn hóa, tăng cường cơ sở vật chất thiết bị theo chuẩn, chú trọng công trình dịch vụ phụ trợ tạo môi trường học tập thân thiện, hiện đại, đáp ứng nhu cầu học tập, sinh hoạt của người học.
Quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN theo hướng mở, bảo đảm quy mô, cơ cấu, hợp lý về ngành, nghề, trình độ đào tạo, gắn với việc hình thành đồng thời các cơ sở GDNN đa ngành và chuyên ngành gắn kết GDNN với thị trường lao động, việc làm bền vững và tăng cường sự tham gia của hiệp hội nghề nghiệp, DN, đơn vị sử dụng lao động trong hoạt động GDNN. Hoàn thiện các quy định để DN là chủ thể của GDNN, được tham gia các công đoạn trong quá trình đào tạo. Thí điểm thành lập hội đồng ngành trong một số lĩnh vực với sự tham gia của cơ quan QLNN về GDNN, các bộ, ngành, các DN. Áp dụng công nghệ để xây dựng hệ thống kết nối cung và cầu đào tạo trong toàn hệ thống. Phát triển hệ thống quản lý và bảo đảm chất lượng GDNN, triển khai mô hình quản lý, quản trị nhà trường theo hướng hiện đại, tinh gọn, chuyên nghiệp; nâng cao năng lực về quản lý và bảo đảm chất lượng; phát triển hệ thống đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động… Đặc biệt, thực hiện hiệu quả công tác phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp THCS, THPT vào học GDNN và liên thông giữa các bậc trình độ và giữa GDNN và bậc đại học; bảo đảm người đủ tiêu chuẩn và có nhu cầu được học liên thông lên trình độ cao hơn.
Nâng cao chất lượng hoạt động dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực, việc làm và nhu cầu đào tạo; trao quyền tự chủ cho các cơ sở GDNN gắn với trách nhiệm giải trình, đánh giá độc lập, sự kiểm soát của Nhà nước, giám sát của xã hội; đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về GDNN, trong đó tập trung hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về GDNN.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực GDNN. Phát triển hệ thống quản lý, đánh giá và công nhận chất lượng GDNN quốc gia bảo đảm tương thích với các khung tham chiếu của khu vực. Phát triển kiểm định chất lượng GDNN và đánh giá, công nhận trường chất lượng cao, chương trình đào tạo chất lượng cao. Đẩy nhanh việc thành lập các trung tâm kiểm định chất lượng GDNN độc lập. Tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống quản lý chất lượng cho các trường cao đẳng và trung cấp theo chuẩn các nước phát triển; nhận chuyển giao công nghệ quản lý, quản trị nhà trường từ các nước phát triển. Áp dụng công nghệ thông tin để xây dựng và vận hành hệ thống thông tin quản lý hiện đại tại các trường trung cấp và cao đẳng (ưu tiên các trường trong danh sách được lựa chọn đầu tư thành trường chất lượng cao và các trường chất lượng cao).
Tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển GDNN: mở rộng các quỹ khuyến học, quỹ hỗ trợ dạy nghề, khuyến khích và đẩy mạnh việc huy động, có chính sách quy định trách nhiệm và quyền lợi đối với sự đóng góp của các tổ chức xã hội, các DN, các tập thể, các tổ chức quốc tế và cá nhân trong và ngoài nước cho GDNN.
Chuẩn hóa và tập trung đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị theo ngành, nghề theo chuẩn, đẩy mạnh xây dựng phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hóa; hệ thống thiết bị thực tế ảo và các phần mềm ảo mô phỏng thiết bị dạy học thực tế trong các cơ sở GDNN…
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực GDNN. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, gắn với trách nhiệm của cơ quan QLNN về GDNN các cấp; phân cấp mạnh chức năng QLNN cho các bộ, ngành, địa phương. Hoàn thiện và nâng cao năng lực bộ máy QLNN về GDNN đáp ứng được yêu cầu thông qua việc chuẩn hóa cán bộ quản lý các cấp. Nghiên cứu để từng bước giảm can thiệp hành chính của cơ quan chủ quản đối với cơ sở GDNN công lập.
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và tăng cường công tác tuyên truyền, hướng nghiệp, tư vấn về GDNN. Trong đó, cần xây dựng kế hoạch truyền thông chuyên nghiệp, bài bản với sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương, cơ sở GDNN, nhà giáo và các cơ quan có liên quan; chủ động cung cấp thông tin kịp thời chính xác cho báo chí để định hướng dư luận, tạo niềm tin cho xã hội.
Ban Biên tập
Cổng thông tin điện tử tỉnh - Những năm qua, giáo dục nghề nghiệp (GDNN) ở nước ta đang từng bước đổi mới, đạt được những kết quả khả quan. Nhận thức của xã hội, người dân, doanh nghiệp về giáo dục nghề nghiệp có những chuyển biến tích cực; số lượng người tham gia vào giáo dục nghề nghiệp ngày càng tăng. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa với nhiều cơ hội và thách thức, giáo dục nghề nghiệp ở nước ta cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa để không chỉ đảm đương trách nhiệm đào tạo nhân lực trực tiếp phục vụ cho sản xuất - kinh doanh mà còn đáp ứng yêu cầu hội nhập, cạnh tranh.Giáo dục nghề nghiệp có vai trò quan trọng đối với đào tạo nhân lực trực tiếp trong sản xuất - kinh doanh, dịch vụ, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đối với quá trình hội nhập. Những năm qua, công tác GDNN ở nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức của xã hội, người dân, doanh nghiệp về GDNN có bước chuyển biến tích cực; số lượng người tham gia vào GDNN ngày càng tăng; tỷ lệ người học sau tốt nghiệp có việc làm cao, thu nhập ổn định.
Để tạo điều kiện cho hoạt động GDNN phát triển, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Luật Giáo dục năm 2005 đã có một mục riêng quy định về GDNN. Năm 2006, Luật Dạy nghề được ban hành, tạo nền tảng pháp lý thuận lợi cho hoạt động đào tạo nghề phát triển phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước. Tiếp đó, năm 2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật GDNN với nhiều đổi mới quan trọng và đột phá nhằm thể chế hóa mạnh mẽ chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện GDNN, giải quyết các bất cập trong thực tiễn, tạo nên diện mạo mới của hệ thống GDNN ở Việt Nam.
Luật GDNN năm 2014 đã hình thành hệ thống GDNN trong hệ thống giáo dục quốc dân, quy định rõ 3 cấp trình độ đào tạo là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, đáp ứng yêu cầu về cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế trong giai đoạn mới. Đồng thời, thể hiện sự đổi mới về tổ chức và quản lý đào tạo, về chính sách cho người học, nhà giáo và cơ sở GDNN; bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa GDNN, tăng cường sự phối hợp, tham gia của doanh nghiệp, người sử dụng lao động vào hoạt động đào tạo, gắn đào tạo với nhu cầu thị trường lao động và xã hội.
Ngay sau khi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao nhiêm vụ quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp (GDNN), trong thời gian ngắn, hệ thống thể chế hướng dẫn thực hiện Luật GDNN đã xây dựng, tham mưu trình ban hành cơ bản hoàn thiện.
Đồng thời, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách đã chủ động đề xuất những quy định mới, chính sách mới từ tổ chức, quản lý hệ thống cho tới quản trị cơ sở GDNN; đổi mới tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo; bổ sung cơ chế, chính sách ưu tiên, ưu đãi cho nhà giáo, người học tạo khung pháp lý để tổ chức, quản lý và triển khai đào tạo theo ba cấp trình độ cao đẳng, trung cấp và sơ cấp...
Nhiều quy định, chính sách mới về phát triển GDNN đưa vào Luật Giáo dục và Bộ luật Lao động. Qua đó, tạo nền tảng vững chắc để ổn định và phát triển GDNN đáp ứng yêu cầu nhân lực trực tiếp cho phát triển đất nước. GDNN đã từng bước tạo niền tin với xã hội về vai trò, trách nhiệm của mình trong sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng.
Sau hơn 20 năm kể từ khi tái lập Tổng cục Dạy nghề (nay là Tổng cục GDNN), lần đầu tiên, Quốc hội đã chính thức phân công Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý nhà nước về GDNN trong Luật Giáo dục sửa đổi, bổ sung năm 2019.
Việc quy hoạch lại mạng lưới cơ sở GDNN bảo đảm tinh gọn, cơ cấu hợp lý, hoạt động hiệu quả được xem là một trong những giải pháp quan trọng để sắp xếp lại hệ thống GDNN. Nhờ sự nỗ lực và tích cực trong đổi mới, chúng ta đã hình thành mạng lưới các cơ sở đào tạo nghề nghiệp rộng khắp cả nước, đa dạng về loại hình và ngành nghề đào tạo. Quy mô và chất lượng đào tạo nghề không ngừng tăng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của người dân, góp phần tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo.
Đến nay, nhận thức của xã hội về giáo dục nghề nghiệp đã có nhiều chuyển biến. Ngày càng nhiều gia đình chọn trường nghề cho con em theo học. Nhiều người học đủ điểm học đại học hoặc đã tốt nghiệp bậc đại học cũng đã lựa chọn trường nghề để học tập, rèn luyện thêm kỹ năng; hệ thống các cơ sở GDNN tin tưởng, hào hứng với khí thế mới, đồng lòng vì sự phát triển của GDNN.
Trong giai đoạn 2017-2019, ba năm liên tiếp, GDNN đều tuyển sinh vượt kế hoạch. Với các trường có uy tín và thương hiệu, tuyển sinh đầu vào đã có sự lựa chọn bằng điểm sàn.
Kết quả phân luồng sau trung học, đặc biệt là sau THCS đã có sự chuyển biến rõ rệt. Nhiều vùng, nhiều địa phương có tỷ lệ phân luồng cao, tính trung bình cả nước đạt 15%.
Năm 2020, trong bối cảnh khó khăn do dịch bệnh, tuyển sinh vẫn có những tín hiệu tốt và có thể đạt chỉ tiêu kế hoạch. Kết quả tuyển sinh khẳng định sự tin tưởng của người học, của xã hội với GDNN về học nghề, lập nghiệp.
Từ kinh nghiệm và thực tiễn đã xuất hiện những tư duy sáng tạo, cách làm mới để phát triển hệ thống GDNN mở, linh hoạt đáp ứng với nhu cầu của người học, của doanh nghiệp, của thị trường lao động. Nhiều mô hình mới, cách làm mới, sáng tạo đã tạo đột phá trong GDNN như mô hình 9+ dành cho học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS) vào học nghề; mô hình đào tạo chất lượng cao theo các chương trình chuyển giao từ nước ngoài; mô hình tuyển sinh gắn với tuyển dụng, thực hành là sản xuất sản phẩm, thành lập hội đồng kỹ năng ngành, công nhận đại sứ nghề...
Gắn kết GDNN với doanh nghiệp đã được thúc đẩy mạnh mẽ, doanh nghiệp đã tham gia sâu vào các hoạt động GDNN. Qua đó, đã triển khai xây dựng chương trình và tổ chức đào tạo kỹ năng quản lý đào tạo, kỹ năng dạy học cho cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp, tạo tiền để để hình thành mô hình doanh nghiệp là nhà trường thứ hai. Qua đó thu hút mạnh mẽ doanh nghiệp tham gia vào GDNN...
Năm 2020, theo báo cáo chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, chỉ số doanh nghiệp có tham gia đào tạo chính thức của Việt Nam xếp hạng thứ 66 tăng 4 bậc so với năm 2019.
Ứng dụng công nghệ thông tin được đẩy mạnh trong mọi hoạt động từ quản lý, quản trị, chỉ đạo điều hành tới hoạt động dạy và học... đã làm thay đổi về chất và lượng từ bên trong của hệ thống GDNN. Đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh Covid -19, đã thể hiện được khả năng ứng phó của GDNN trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển từ trực tiếp sang trực tuyến để thực hiện tuyển sinh, đào tạo và quản lý, chỉ đạo điều hành.
Chất lượng, hiệu quả GDNN từng bước được cải thiện. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp có việc làm sau tốt nghiệp đạt 85%, một số ngành nghề tỷ lệ đạt 100% với mức thu nhập bình quân 7-10 triệu đồng/tháng, đối với các ngành nghề trọng điểm, chất lượng cao thu nhập từ 15-20 triệu đồng/tháng. Đã xuất hiện những học sinh, sinh viên tiêu biểu về học nghề, lập nghiệp, khởi nghiệp thành công sau tốt nghiệp và ngay cả khi còn đang học.
Trong các kỳ thi kỹ năng nghề ASEAN và thế giới, thành tích của các thí sinh luôn được cải thiện. Năm 2019, lần đầu tiên Việt Nam dành huy chương Bạc tại Kỳ thi kỹ năng nghề thế giới tổ chức tại LB Nga, xếp thứ 25/63 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia dự thi. Năm 2019, Diễn đàn Kinh tế thế giới đã xếp hạng chất lượng đào tạo GDNN tăng 13 bậc.
Bên cạnh đó, việc tăng cường gắn kết với doanh nghiệp trong tổ chức đào tạo, giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp bước đầu đi vào chiều sâu, hoạt động hiệu quả. Cơ chế phối hợp ba bên: Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp bắt đầu hình thành và vận hành khá tốt trong thực tiễn… Xác định gắn kết với doanh nghiệp là một trong 3 đột phá để đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN, từ năm 2016 đến nay, nhiều hoạt động gắn kết với DN đã được triển khai. Đặc biệt, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 29/2017/TT-BLĐTBXH ngày 15/12/2017 quy định về liên kết tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, khuyến khích các cơ sở GDNN và DN liên kết để tổ chức đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, trong đó doanh nghiệp có thể đảm nhận giảng dạy đến 40% thời lượng của chương trình đào tạo.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp còn tham gia hoạt động GDNN từ việc tham gia xây dựng chuẩn đầu ra, xây dựng chương trình, tham gia đào tạo, đánh giá người học cho đến tuyển dụng và việc làm với nhiều hình thức khác nhau như: liên kết đào tạo, đào tạo tại DN, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động…
Những kết quả trên khẳng định GDNN đã có bước chuyển quan trọng về chất và lượng, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển đất nước.
Để tranh thủ thời cơ dân số vàng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 28/5/2020 về đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới.
Chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành địa phương tập trung chỉ đạo triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát triển GDNN, phát triển nhân lực có kỹ năng nghề.
Đồng thời, tăng cường chuyển đổi số và đào tạo trực tuyến, chú trọng đào tạo lại và đào tạo thường xuyên lực lượng lao động để tạo chuyển biến mạnh mẽ về quy mô, chất lượng và hiệu quả của GDNN; bảo đảm người học có kỹ năng chuyên môn, kỹ năng số, kỹ năng mềm, kỹ năng khởi nghiệp và ngoại ngữ... thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động.
Chú trọng nội dung phát triển GDNN, phát triển nhân lực có kỹ năng nghề trong các kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển ngành, địa phương; ưu tiên phân bổ ngân sách cho GDNN trong tổng chi ngân sách nhà nước dành cho giáo dục, đào tạo và trong các chương trình, dự án của ngành, địa phương; thí điểm đào tạo trình độ cao đẳng cho học sinh tốt nghiệp THCS; tiếp tục triển khai các chương trình chuyển giao từ nước ngoài có hiệu quả để nhân rộng trong hệ thống GDNN.
Trong bối cảnh hiện nay, trước sự vận động, phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ và tri thức nhân loại, đặc biệt là trước yêu cầu của toàn cầu hóa, quốc tế hóa - những xu thế vừa là thời cơ, vừa là thách thức, GDNN Việt Nam cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ để không chỉ đảm đương được trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng nhân lực trực tiếp phục vụ cho sản xuất - kinh doanh mà còn đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng, nhất là các điều kiện về chương trình, giáo trình, về nhà giáo, cán bộ quản lý; về cơ sở vật chất, thiết bị phù hợp với đặc thù Việt Nam và tiếp cận các nước trong ASEAN-4 cũng như các nước phát triển trong nhóm G20. Cụ thể: đổi mới chương trình đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra trên cơ sở tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, có sự tham gia của hiệp hội nghề nghiệp, DN, đơn vị sử dụng lao động phù hợp với chương trình đào tạo; xây dựng chương trình liên thông giữa các cấp trình độ đào tạo trong cùng ngành, nghề hoặc với các ngành, nghề khác hay liên thông lên trình độ cao hơn. Đổi mới tổ chức đào tạo, áp dụng công nghệ đào tạo tiên tiến của các nước phát triển, ứng dụng đồng bộ công nghệ thông tin trong dạy - học, quản lý đào tạo; thí điểm thuê chuyên gia nước ngoài đào tạo trong một số ngành, nghề chất lượng cao cần đạt chuẩn quốc tế mà trong nước chưa đáp ứng được. Đổi mới hình thức và phương pháp thi, kiểm tra đánh giá: khuyến khích sự tham gia của DN, đơn vị sử dụng lao động, các hiệp hội nghề nghiệp trong đánh giá kết quả đào tạo của cơ sở GDNN.
Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GDNN. Chuẩn hóa, tăng cường cơ sở vật chất thiết bị theo chuẩn, chú trọng công trình dịch vụ phụ trợ tạo môi trường học tập thân thiện, hiện đại, đáp ứng nhu cầu học tập, sinh hoạt của người học.
Quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN theo hướng mở, bảo đảm quy mô, cơ cấu, hợp lý về ngành, nghề, trình độ đào tạo, gắn với việc hình thành đồng thời các cơ sở GDNN đa ngành và chuyên ngành gắn kết GDNN với thị trường lao động, việc làm bền vững và tăng cường sự tham gia của hiệp hội nghề nghiệp, DN, đơn vị sử dụng lao động trong hoạt động GDNN. Hoàn thiện các quy định để DN là chủ thể của GDNN, được tham gia các công đoạn trong quá trình đào tạo. Thí điểm thành lập hội đồng ngành trong một số lĩnh vực với sự tham gia của cơ quan QLNN về GDNN, các bộ, ngành, các DN. Áp dụng công nghệ để xây dựng hệ thống kết nối cung và cầu đào tạo trong toàn hệ thống. Phát triển hệ thống quản lý và bảo đảm chất lượng GDNN, triển khai mô hình quản lý, quản trị nhà trường theo hướng hiện đại, tinh gọn, chuyên nghiệp; nâng cao năng lực về quản lý và bảo đảm chất lượng; phát triển hệ thống đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động… Đặc biệt, thực hiện hiệu quả công tác phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp THCS, THPT vào học GDNN và liên thông giữa các bậc trình độ và giữa GDNN và bậc đại học; bảo đảm người đủ tiêu chuẩn và có nhu cầu được học liên thông lên trình độ cao hơn.
Nâng cao chất lượng hoạt động dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực, việc làm và nhu cầu đào tạo; trao quyền tự chủ cho các cơ sở GDNN gắn với trách nhiệm giải trình, đánh giá độc lập, sự kiểm soát của Nhà nước, giám sát của xã hội; đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về GDNN, trong đó tập trung hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về GDNN.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực GDNN. Phát triển hệ thống quản lý, đánh giá và công nhận chất lượng GDNN quốc gia bảo đảm tương thích với các khung tham chiếu của khu vực. Phát triển kiểm định chất lượng GDNN và đánh giá, công nhận trường chất lượng cao, chương trình đào tạo chất lượng cao. Đẩy nhanh việc thành lập các trung tâm kiểm định chất lượng GDNN độc lập. Tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống quản lý chất lượng cho các trường cao đẳng và trung cấp theo chuẩn các nước phát triển; nhận chuyển giao công nghệ quản lý, quản trị nhà trường từ các nước phát triển. Áp dụng công nghệ thông tin để xây dựng và vận hành hệ thống thông tin quản lý hiện đại tại các trường trung cấp và cao đẳng (ưu tiên các trường trong danh sách được lựa chọn đầu tư thành trường chất lượng cao và các trường chất lượng cao).
Tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển GDNN: mở rộng các quỹ khuyến học, quỹ hỗ trợ dạy nghề, khuyến khích và đẩy mạnh việc huy động, có chính sách quy định trách nhiệm và quyền lợi đối với sự đóng góp của các tổ chức xã hội, các DN, các tập thể, các tổ chức quốc tế và cá nhân trong và ngoài nước cho GDNN.
Chuẩn hóa và tập trung đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị theo ngành, nghề theo chuẩn, đẩy mạnh xây dựng phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hóa; hệ thống thiết bị thực tế ảo và các phần mềm ảo mô phỏng thiết bị dạy học thực tế trong các cơ sở GDNN…
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực GDNN. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, gắn với trách nhiệm của cơ quan QLNN về GDNN các cấp; phân cấp mạnh chức năng QLNN cho các bộ, ngành, địa phương. Hoàn thiện và nâng cao năng lực bộ máy QLNN về GDNN đáp ứng được yêu cầu thông qua việc chuẩn hóa cán bộ quản lý các cấp. Nghiên cứu để từng bước giảm can thiệp hành chính của cơ quan chủ quản đối với cơ sở GDNN công lập.
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và tăng cường công tác tuyên truyền, hướng nghiệp, tư vấn về GDNN. Trong đó, cần xây dựng kế hoạch truyền thông chuyên nghiệp, bài bản với sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương, cơ sở GDNN, nhà giáo và các cơ quan có liên quan; chủ động cung cấp thông tin kịp thời chính xác cho báo chí để định hướng dư luận, tạo niềm tin cho xã hội.