Welcome to Yen Bai Portal
  • Đường dây nóng: 02163.818.555
  • English

Di tích cấp tỉnh >> Văn hóa - Xã hội

Di tích lịch sử cấp tỉnh đình Cầu A, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái

21/02/2025 15:50:50 Xem cỡ chữ Google
CTTĐT – Ngày 19/12/2023, UBND tỉnh Yên Bái đã ký Quyết định số 2442/QĐ-UBND công nhận đình Cầu A, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái là di tích cấp tỉnh.

Di tích lịch sử cấp tỉnh đình Cầu A, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái

1. Tên gọi di tích

- Di tích lịch sử đình Cầu A, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.

- Tên gọi khác:

+ Đình Cả: Ngôi đình lớn nhất vùng - tên gọi đầu tiên của di tích.

+ Đình làng Cầu A: Tên gọi gắn liền tên gọi vùng đất làng Cầu A.

+ Đình Cả Cầu A: Ngôi đình lớn nhất nằm trên địa phận làng Cầu A.

2. Loại hình di tích

Di tích đình Cầu A, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái được xếp vào loại hình di tích cấp tỉnh

3. Quyết định công nhận di tích cấp tỉnh

Quyết định số 2442/QĐ-UBND ngày 19/12/2023 của UBND tỉnh Yên Bái công nhận đình Cầu A, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái là di tích cấp tỉnh.

4. Địa điểm di tích 

Toàn bộ khu vực nền móng cũ và khuôn viên di tích đình Cầu A hiện nay tọa lạc trên một gò đất thấp (gò Đình) thuộc địa phận thôn Cầu A, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, cách Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Mậu Đông 04km về phía Đông Nam, cách trung tâm huyện lỵ Văn Yên (thị trấn Mậu A) 02km về phía Đông Bắc, cách trung tâm tỉnh lỵ Yên Bái (Quảng trường 19/8 - Km5, thành phố Yên Bái) 43km về phía Tây Bắc. Đình Cầu A được quy hoạch với tổng diện tích đất là: 998,0m2.

5. Đường đi đến di tích

Để đến được di tích đình Cầu A, thôn Cầu A, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, du khách có thể di chuyển rất thuận lợi bằng đường bộ và đường sắt.

- Đường sắt: Từ ga Yên Bái (phường Hồng Hà), du khách lên tàu tuyến Yên Bái – Lào Cai và xuống tại ga Mậu A, tiếp tục di chuyển theo đường liên thôn Mậu A – Mậu Đông dọc đường sắt khoảng 2,5km tới thôn Cầu A (Mậu Đông) là đến di tích.

- Đường bộ:

+ Từ trung tâm tỉnh lỵ Yên Bái (km5), du khách đi theo tuyến đường Yên Bái - Khe Sang khoảng 40km tới ngã tư đường Lý Thường Kiệt - Lý Tự Trọng - Tuệ Tĩnh (Công an huyện Văn Yên cũ) rẽ phải theo đường Lý Tự Trọng (hướng Mậu A - Ngòi A) khoảng 0,5km qua đường sắt thì rẽ trái đi tiếp theo đường liên thôn Mậu A - Mậu Đông dọc đường sắt khoảng 02km tới thôn Cầu A (Mậu Đông) là đến di tích.

+ Từ trung tâm tỉnh lỵ Yên Bái (km5), du khách di chuyển theo đường Âu Cơ (Yên Bái - Văn Phú) lên đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai tại nút giao Văn Phú - IC12 (Km114) đến nút giao An Thịnh - IC14 (Km 150) tới cầu Mậu A (Văn Yên) rẽ trái vào tới trung tâm huyện lỵ Văn Yên, tới ngã tư đường Lý Thường Kiệt - Lý Tự Trọng - Tuệ Tĩnh (Công an huyện Văn Yên cũ) tiếp tục đi thẳng đường Lý Tự Trọng (hướng Mậu A - Ngòi A) khoảng 0,5km qua đường sắt thì rẽ trái đi tiếp theo đường liên thôn Mậu A – Mậu Đông dọc đường sắt khoảng 02km tới thôn Cầu A (Mậu Đông) là đến di tích.

+ Từ trung tâm tỉnh lỵ Yên Bái (km5), du khách di chuyển theo Quốc lộ 37 (Yên Bái  - Nghĩa Lộ) qua cầu Yên Bái đến Km 6 – xã Âu Lâu (thành phố Yên Bái) rẽ phải đi theo đường Tỉnh lộ 166 (Âu Lâu - Đông An), tới cầu Mậu A (Văn Yên) rẽ phải vào tới trung tâm huyện lỵ Văn Yên tới ngã tư đường Lý Thường Kiệt - Lý Tự Trọng - Tuệ Tĩnh (Công an huyện Văn Yên cũ) tiếp tục đi thẳng đường Lý Tự Trọng (hướng Mậu A - Ngòi A)  khoảng 0,5km qua đường sắt thì rẽ trái đi tiếp theo đường liên thôn Mậu A - Mậu Đông dọc đường sắt khoảng 02km tới thôn Cầu A (Mậu Đông) là đến di tích.

6. Sơ lược lịch sử di tích

Đình Cầu A được khởi dựng vào khoảng thế kỷ XVIII với tên gọi đầu tiên là đình Cả. Lúc này, ngôi đình tọa lạc trên khối đá lớn tại gò đất thấp trong rừng thuộc địa phận làng Cầu A, xã Mậu A, tổng Đông Cuông (Đông Quang), huyện Trấn Yên, phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa (thôn Cầu A, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái ngày nay). Di tích được người dân địa phương gọi là đình Cả.

Xưa kia, khu vực xã Mậu A nói riêng, tổng Đông Cuông nói chung (xã Mậu Đông, xã Ngòi A và thị trấn Mậu A, huyện Văn Yên ngày nay) vốn là một vùng đất cổ, nằm trên vùng thềm sông Hồng. Đặc biệt, khu vực này cũng là nơi phát hiện ra nhiều công cụ thuộc nền văn hóa Sơn Vi. Điều này chính là minh chứng sáng nhất cho việc xác định người Việt cổ đã có mặt ở vùng đất này từ rất lâu đời. Tuy nhiên, ở giai đoạn này họ mới chỉ quy tụ thành những nhóm người nhỏ, thưa thớt. Đồng thời, cuộc sống chủ yếu dựa vào việc khai thác tự nhiên (săn bắt, hái lượm, đánh cá, khai thác rừng...) dựa trên việc sử dụng những công cụ lao động thô sơ. Sau dần, bằng việc tích lũy kinh nghiệm cải biến tự nhiên, qua thời gian, họ dần trở thành những cư dân nông nghiệp có trình độ lao động sản xuất cao. Trong đó, phát triển nhất là chăn nuôi (gia súc, gia cầm) và trồng trọt (lúa nước, hoa màu). Chính bởi cuộc sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên đã hình thành trong họ tín ngưỡng tôn thờ tự nhiên. Do đó, việc thờ cúng các vị thần tự nhiên (nhiên thần) cũng nhanh chóng tạo được sự ảnh hưởng và gần gũi với đồng sống văn hóa của họ. Qua đó, người dân đã dần hình thành ý thức trong việc gắn kết cộng đồng nhằm tạo sức mạnh chinh phục tự nhiên

Theo kết quả tổng hợp từ các nguồn dã sử, xuất phát từ quan niệm và tâm tưởng trên, người dân vùng đất Mậu A, tổng Đông Cuông (Đông Quang), huyện Trấn Yên, phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa xưa đã chung tay tạo dựng cho cộng đồng mình một ngôi nhà chung, một thiết chế tín ngưỡng gọi tên là đình Cả, vào khoảng thế kỷ XVIII. Đình thờ “Tản Viên Sơn Tam vị Đại vương”, tức ba vị thần, gồm: Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương.

Khởi đầu, ngôi đình được dựng trên một phiến đá lớn thuộc một gò đất thấp trong khu rừng sát làng mà người dân thường gọi là gò Đình. Đình mang kiến trúc nhà gỗ ba gian thông không có vách ngăn, hình chữ Nhất (), mái đình lợp cọ, xung quanh bưng kín bằng ván gỗ, kiến trúc mộc mạc, thiết kế giản đơn, thể hiện rõ nét lối sống văn hóa của người dân miền sơn cước. Ban thờ cao khoảng 1,2m, được làm bằng ván gỗ tốt, ghép thành khối hình hộp chữ nhật giống như một khám thờ với kích thước: rộng 1,5m, cao 1m, sâu 1,2m nhưng được dựng lùi về sau phía cuối hồi, phía trước có cửa. Trong ban thờ chia thành 2 tầng: tầng trên đặt 03 ngai thờ và 03 bát nhang thờ; tầng dưới dùng để đặt/bày lễ vật mỗi khi đình thực hiện các nghi lễ cúng tế thần.

Sau này, dù Đình đã được tu bổ, tôn tạo lớn hơn, tuy nhiên ngôi đình vẫn giữ nguyên lối kiến trúc bình dị ban đầu, điều này đã phản ảnh rõ nét tính bền vững trong đời sống văn hóa của người dân bản địa.

Di tích đình Cầu A đã nhanh chóng trở thành một địa điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh quan trọng, nơi tưởng nhớ, tri ân các bậc tiền nhân, những người có công trong công cuộc cải biến tự nhiên xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đồng thời cũng là nơi gửi gắm những ước nguyện của cá nhân và cộng đồng đến các "đấng siêu nhiên"; để mong nhận được sự bảo vệ, che chở về tinh thần trước những khó khăn, bất trắc trong cuộc sống thường hằng mà họ gặp phải. Không những thế, nơi đây còn là ngôi nhà chung, là địa điểm bàn bạc, thỏa thuận, giải quyết những vấn đề của cộng đồng.

* Các mốc thời gian thay địa giới hành chính của di tích đình Cầu A

- Năm 1900, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định ấn định ranh giới mới của các đạo quan binh ở Bắc Kỳ. Tỉnh Yên Bái được thành lập. Theo đó, ngôi đình nằm trên vùng đất xã Mậu A, tổng Đông Cuông, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái.

- Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chủ trương thành lập liên xã Mậu Ninh với 05 thôn, gồm: Phú Cường, Mậu Đông, Đoàn Kết, Yên Thành và Yên Hưng. Di tích thuộc địa phận thôn Phú Cường, liên xã Mậu Ninh, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái.

- Ngày 08/3/1953, trên cơ sở 05 thôn, liên xã Mậu Ninh thành 05 xã, gồm: xã Mậu A, xã Mậu Đông, xã Đoàn Kết (xã Ngòi A ngày nay) và hai xã Yên Thành, Yên Hưng (xã Yên Thái ngày nay). Lúc này, di tích thuộc xã Mậu A, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái.

- Ngày 16/12/1964, huyện Văn Yên được thành lập gồm 25 xã. Xã Mậu A là trung tâm huyện lỵ Văn Yên. Theo đó, di tích nằm trên địa bàn xã Mậu A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.

- Ngày 27/12/1975, hợp nhất ba tỉnh: Lào Cai, Yên Bái và Nghĩa Lộ thành một tỉnh mới lấy tên Hoàng Liên Sơn. Phần đất di tích thuộc địa phận xã Mậu A, huyện Văn Yên, tỉnh Hoàng Liên Sơn.

- Ngày 19/12/1987, giải thể xã Mậu A để thành lập thị trấn Mậu A, một phần phía Bắc của xã Mậu A sáp nhập vào xã Mậu Đông. Khi này, khu vực di tích thuộc địa phận thôn 12, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Hoàng Liên Sơn.

- Ngày 12/8/1991, tỉnh Hoàng Liên Sơn được tách thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Khu vực di tích thuộc thôn 12, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.

- Năm 2018, huyện Văn Yên triển khai đề án chia tách, sáp nhập thôn, tổ dân phố thuộc các xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Trong đó, tại xã Mậu Đông thực hiện hợp nhất thôn 11, thôn 12 và một phần thôn 7 lấy tên thôn Cầu A, xã Mậu Đông. Từ đó đến nay, vị trí nền móng di tích thuộc địa phận thôn Cầu A, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái và không có thay đổi địa danh, địa giới.

Mặc dù trải qua nhiều biến cố thời gian cùng những thăng trầm lịch sử với những lần chia tách, sáp nhập, thay đổi tên địa danh và địa giới hành chính, tuy nhiên vị trí tọa lạc đình Cầu A không di rời, thay đổi. Hiện nay, khu vực nền móng di tích đình Cầu A vẫn tọa lạc tại vị trí ban đầu, đồng thời đã được chính quyền địa phương xác định và thực hiện quy hoạch toàn bộ phần diện tích. Theo đó, đình Cầu A được quy hoạch với tổng diện tích đất là: 998,0m2.

* Tài liệu liên quan tới lịch sử di tích đình Cầu A

Hồ sơ khoa học Di tích lịch sử cấp tỉnh đình Ngòi A, xã Ngòi A, huyện Văn Yên, năm 2007

Sắc phong số 1:

+ Phiên âm:

“Tản Viên Sơn Tôn Vị Sơn Thần nguyên tặng Mậu Huân Long Trạch Hoằng Hy Tụy Linh Hạo Sảng thượng đẳng thần, hộ quốc tý dân lẫm trứ linh ứng. Tứ kim thừa ưng mạnh diến niệm thần hưu khả gia tặng Mậu Huân Long Trạch Hoằng Hy Tụy Linh Hạo Sảng Tuấn Tĩnh thượng đẳng thần, nhưng chuẩn Trấn Yên huyện, Mậu A xã y cựu phụng sự thần kỳ tương hựu bảo ngã lễ dân. Khâm tai.

Tự Đức, lục niên cửu nguyệt nhị thập tứ nhật”.

+ Dịch nghĩa:

“Sắc ban cho ba vị tôn thần núi Tản Viên được tặng phong: Mậu Huân Long Trạch Hoằng Hy Tụy Linh Hạo Sảng thượng đẳng thần, phò nước giúp dân, anh linh hiển ứng. Ban sắc lệnh to lớn này nhớ công của tôn thần ban thêm phong tặng: Mậu Huân Long Trạch Hoằng Hy Tụy Linh Hạo Sảng thượng đẳng thần, chuẩn y cho xã Mậu A, huyện Trấn Yên phụng thờ như trước. Mong tôn thần âm phù đất nước bảo hộ cho dân của ta. Kính cẩn tuân theo.

Ngày 24 tháng 9 năm Tự Đức thứ 6 (năm 1853)”.

- Sắc phong số 2:

+ Phiên âm:

“Sắc chỉ Hưng Hóa tỉnh, Trấn Yên huyện, Mậu A xã. Tòng tiền phụng sự Mậu Huân Long Trạch Hoằng Hy Tụy Linh Hạo Sảng Tuấn Tĩnh Tản Viên Sơn tam vị thượng đẳng thần, tiết kinh ban cấp. Sắc phong chuẩn kỳ phụng sự, Tự Đức tam thập nhất niên chính trị, trẫm ngũ tuần, đại khánh tiết kinh ban bảo chiếu đàm ân lễ long đăng trật, đặc chuẩn hứa y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai.

Tự Đức, tam thập tam niên thập thất nguyệt nhị thập tứ nhật”.

+ Dịch nghĩa:

“Sắc cho xã Mậu A, huyện Trấn Yên, tỉnh Hưng Hóa. Theo như trước phụng thờ tôn thần Mậu Huân Long Trạch Hoằng Hy Tụy Linh Hạo Sảng Tuấn Tĩnh Tản Viên Sơn tam vị thượng đẳng thần. Nhân đại lễ mừng trẫm  thọ 50 tuổi, ở ngôi 31 năm. Nay ban chiếu báu gia ơn phong chuẩn cho tôn thờ thần sắc cho dân làng theo ý như trước thờ cúng dùng nghi lễ lớn để thờ phụng. Kính cẩn tuân theo

Ngày 24 tháng 11 năm Tự Đức thứ 33 (năm 1880)”.

- Sắc phong số 3:

+ Phiên âm:

“Sắc Mậu Huân Long Trạch Hoằng Hy Tụy Linh Hạo Sảng Tuấn Tĩnh Tản Viên Sơn tam vị thượng đẳng thần, hướng lai hộ quốc tý dân lẫm trứ linh ứng tiết mông ban cấp tặng sắc lưu tự. Tứ kim phỉ ứng cảnh mạnh diến niệm thần hưu khả gia tặng Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần nhưng chuẩn hứa Hưng Hóa tỉnh, Trấn Yên huyện, Mậu A xã y cựu phụng sự thần kỳ tương hựu bảo ngã lễ dân. Khâm tai.

Đồng Khánh, nhị niên thất nguyệt sơ nhất nhật”

+ Dịch nghĩa:

“Sắc ban cho tôn hiệu thần là: Mậu Huân Long Trạch Hoằng Hy Tụy Linh Hạo Sảng Tuấn Tĩnh Tản Viên Sơn tam vị thượng đẳng thần, từ trước đã có công phò nước nước giúp dân anh linh hiển ứng. Nay nhân đại lễ ban cấp sắc phong tặng để dân làng thờ cúng để tưởng nhớ công ơn tôn thần phong tặng thêm Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần, chuẩn cho dân làng xã Mậu A, huyện Trấn Yên, tỉnh Hưng Hóa như trước phụng thờ mong thần phù hộ  giúp đỡ dân làng của trẫm. Kính cẩn tuân theo.

Ngày 01 tháng 7 năm Đồng Khánh thứ 2 (1887)”.

- Sắc phong số 4:

+ Phiên âm:

“Sắc Yên Bái tỉnh, Trấn Yên huyện, Mậu A xã. Tòng tiền phụng sự Mậu Huân Long Trạch Hoằng Hy Tụy Linh Hạo Sảng Tuấn Tĩnh Dực Bảo Trung Hưng Tản Viên Sơn tam vị thượng đẳng thần, tiết kinh ban cấp. Sắc phong chuẩn hữu phụng sự, Duy Tân nguyên niên tấn quang đại lễ kinh ban. Bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật. Đặc chuẩn: y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điền. Khâm tai.

Duy Tân, tam niên bát nguyệt thập nhất nhật”.

+ Dịch nghĩa:

“Sắc cho xã Mậu A, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Từ trước phụng thờ Huân Long Trạch Hoằng Hy Tụy Linh Hạo Sảng Tuấn Tĩnh Dực Bảo Trung Hưng Tản Viên Sơn tam vị thượng đẳng thần. Nhân đại lễ tấn phong lên ngôi hiệu Duy Tân năn thứ nhất. Nay ban chiếu báu xuống ơn phong thêm hàm chuẩn y cứ như trước kia phụng thờ như đại lễ nhà để thờ phụng. Kính cẩn tuân theo.

Ngày 03 tháng 11 năm Duy Tân thứ 3 (năm 1910)”.

- Sắc phong số 5:

+ Phiên âm:

 “Sắc Yên Bái tỉnh, Trấn Yên huyện, Mậu A xã. Tòng tiền phụng sự Mậu Huân Long Trạch Hoằng Hy Tụy Linh Hạo Sảng Tuấn Tĩnh Dực Bảo Trung Hưng Tản Viên Sơn tam vị thượng đẳng thần, hộ quốc tý dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp. Sắc phong chuẩn hữu phụng sự, tứ kim chính trực.

Trẫm ngũ tuần đại khánh tiết kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật. Đặc chuẩn: y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điền.

Khâm tai.

Khải Định, cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật”.

+ Dịch nghĩa:

“Sắc cho xã Mậu A, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Từ trước phụng thờ Huân Long Trạch Hoằng Hy Tụy Linh Hạo Sảng Tuấn Tĩnh Dực Bảo Trung Hưng Tản Viên Sơn tam vị thượng đẳng thần. Thần bảo hộ đất nước, che chở nhân dân thường lâu nay linh ứng rõ ràng. Đã được ban sắc phong, chuẩn cho thờ cúng.

Nay chính lúc Trẫm mừng thọ tuổi 40 nên ban chiếu báu, ban ơn thăng lên một bậc, chuẩn y cứ như trước kia phụng thờ như đại lễ nhà để thờ phụng.

Kính cẩn tuân theo.

Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (năm 1924)”.

- Sách “Việt Nam phong tục” có ghi: “Mỗi làng thờ thần phải có một tòa miếu. Có nơi thì vừa có miếu vừa có đình. Làng nào to thì mỗi thôn lại có lập riêng một đình” và “mỗi làng phụng sự một vị Thần hoàng, có làng thờ hai ba vị, có làng thờ năm bảy vị, tục gọi là Phúc Thần. Phúc Thần có ba hạng: Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần…”. Trong đó, ba nhân vật là Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương được xếp vào hạng Thượng đẳng thần.

- Bảng giới thiệu tổng quát Đền Thượng – điểm khởi nguồn của tín ngưỡng Tản Viên (Sơn Tinh) thuộc địa phận Vườn Quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội, có ghi: “… Theo truyền thuyết kể lại thì Đức Thánh Tản tên thật là Nguyễn Tuấn, con trai của ông Nguyễn Cao Hành và bà Đinh Thị Đen, quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tay, nay là huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Còn Nguyễn Hiền và Nguyễn Sùng là hai anh em con chú của Nguyễn Tuấn. Khi cha mẹ mất, ba anh em phải sống tự lập. Họ sang núi Ngọc Tản kiếm sống, được Ma Thị Cao Sơn – người cai quản núi Ngọc Tản nhận làm con nuôi, viết di chúc tặng lại toàn bộ tài sản, đất đai khu vực núi cho Nguyễn Tuấn, được Thái Bạch Kim Tinh trao cho cây gậy thần, được Long Vương trao quyền sách ước. Từ đó ba anh em Sơn Tinh đi khắp nơi để cứu nhân dân, dạy dân lao động, sản xuất...”

- Trong sách Kiến văn tiểu lục (Tập I, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2007), nhà bác học Lê Quý Đôn có nhận xét về vùng đất Yên Bái xưa, rằng: “Một dải sông Thao, dân tục thuần hậu, biết lễ phép văn tự”.

- Sách “Việt Nam phong tục”, ghi: “Chùa lắm nơi danh lam thắng tích, cách thức to tát rộng rãi, phong cảnh thanh thú vô cùng. Nhưng cũng nhiều nơi ở giữa quãng không hoặc ở bên sườn núi xa thẳm, vài ba gian tiều tụy lơ thơ, quanh năm ít người thăm viếng thì lại là nơi cô tích quá”.

- Sách Đền, chùa, đình ở tỉnh Yên Bái có ghi: “… Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp: - Đình là nơi dạy bình dân học vụ, diệt giặc dốt …”.

- Theo cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Trấn Yên (1930 - 2004) do Ban chấp hành Đảng bộ huyện Trấn Yên, xuất bản năm 2005: “Đạo Phật vào Trấn Yên từ thời Trần và phát triển trong thời Lê, thời Nguyễn. Đến kháng chiến chống Pháp hầu hết chùa chiền bị tàn phá, nhiều nơi cả đình, đền cũng thành phế tích, số được khôi phục lại không đáng kể.”.

- Cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Mậu Đông (1945-2010) do Ban Chấp hành Đảng bộ xã Mậu Đông, xuất bản năm 2014 viết: “Số đông người Mậu Đông đều theo tín ngưỡng Phật giáo…”.

7. Các nhân vật được thờ tự

Đình thờ “Tản Viên Sơn tam vị thượng đẳng thần”. Nguyên văn chữ Hán là "Tản Viên Sơn Tam vị Đại vương". Ý chỉ 3 vị đại vương cai quản vùng núi Tản Viên (Ba Vì, Hà Nội) gồm: Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương. Tương truyền là ba vị thần sinh có công giúp vua Hùng Duệ Vương đánh giặc, bảo vệ đất nước.

Thần tích tại đình Sơn Bao (Vĩnh Phúc) ghi lại: "Nước Việt ta thời kỳ mở nước, vào đời vua Hùng 18, dưới sự trị vì của Hùng Duệ Vương, ở Gia Viễn, Hưng Hoá đạo Sơn Tây có một gia đình họ Nguyễn, sinh được 2 người con trai, cả 2 anh em tuổi đã cao nhưng vẫn chưa có con để nối dõi. Một hôm hai anh em ông gặp một ông già râu tóc bạc, đầu đội mũ Bách Tinh. Ông già thấy hai người phúc hậu nên nói với hai người: ta thấy gò đất ở Kim Nhanh núi Thu Tính thuộc Hoan Châu rất đẹp, nếu hai người mang hài cốt thân phụ các ngươi táng ở đó sẽ ắt sinh ra bậc thánh từ, nói xong, ông già biến mất.

Hai ông trở về nhà làm theo lời ông già dặn, chưa đầy 2 năm sau quả nhiên phu nhân của hai ông đều mang thai và vợ ông anh sinh được 1 người con trai, vợ ông em sinh được 1 bọc 2 con trai, cả 3 người đều có phong thái đĩnh đạc, khí chất hiên ngang khác thường. Hai nhà vui mừng đặt tên cho con của ông anh là Nguyễn Tuấn, còn 2 con của người em đặt tên là Nguyễn Sùng và Nguyễn Hiền. Đến tuổi trưởng thành cùng tìm thầy để học, nhờ tư chất thông minh cả 3 người đều rất tài giỏi, cả cung tên và binh pháp khiến cho bạn bè trang lứa ai nấy đều khâm phục. Đến năm 3 anh em 17 tuổi, chỉ trong 1 năm cả thân phụ, thân mẫu 3 người đều lần lượt qua đời. 3 anh em rất thương xót chọn phần đất quý làm lễ an táng, giữ việc hương đèn, phụng thờ theo nghi thức. Sau 3 năm khi đã mãn tang cha mẹ, việc hiếu đã trọn, 3 anh em cùng nhau lên núi Tản Viên linh thiêng và được Ma thị Thần Nữ nhận làm con nuôi.

Một ngày nọ trên núi Tản linh thiêng, có một ông già tay cầm gậy trúc từ trên trời giáng thẳng xuống. Nguyễn Tuấn lấy làm kinh sợ, ông cúi đầu bái tạ nhờ ông tiên cứu giúp. Ông già trao gậy thần và truyền phép chú của mình rồi dặn rằng "gậy này đầu trên cứu chúng sinh, đầu dưới trừ ác. Chỉ vào núi, núi sạt; chỉ vào sông, sông cạn; chỉ vào lửa, lửa tắt; chỉ vào gỗ, gỗ gãy. Khanh hãy cẩn thận giữ gìn chớ có xem thường". Nói xong ông già biến mất.

Từ đó Nguyễn Sùng và Nguyễn Hiền ở nhà phụng dưỡng mẹ nuôi, còn Nguyễn Tuấn chu du thiên hạ cứu vớt dân sinh, quá trình chu du ông đã cứu được rất nhiều người. Một hôm ông cứu được long cung Thái tử con vua Thủy tề, vua Thủy Tề rất cảm kích mà ban tặng cho ông cuốn "ước thư". Phán là ước điều gì sẽ được như ý. Nguyễn Tuấn lúc đó vừa có gậy vừa có ước thư nên thường cứu hoạ đem phúc cho đời. Được người đời gọi là Tản Viên Sơn Thánh.

Ngày đó, đời vua Hùng thứ 18 (Hùng Duệ Vương) sinh được 20 hoàng tử và 6 nàng công chúa nhưng đều qua đời chỉ còn lại 2 nàng công chúa, một nàng tên Tiên Dung được gả cho Chử Đồng Tử, một nàng là Ngọc Hoa công chúa đang đến tuổi kén chồng. Nhà vua ban chiếu trong thiên hạ tìm người thông minh tài trí, đức độ, anh hùng lập làm phò mã.  Tản Viên Sơn Thánh cùng 2 người em tìm đường về kinh thành dự thi và được nhà vua kén làm phò mã. Sơn Thánh đón công chúa về Sơn Động, 2 người em lại giúp việc chính sự cho nhà vua và được nhà vua cho đi khắp mọi nơi, giúp đỡ dân chúng trong thiên hạ, dạy dân làm ăn, phát triển sản xuất.

Lúc bấy giờ Hùng Duệ Vương đã 105 tuổi, các hoàng tử đã lần lượt về nơi tiên cảnh, Chúa Thục thấy vậy liền thừa cơ dậy binh, cầu viện các nước láng giềng đến xâm lấn. Nhận được tin cấp báo, Tản Viên Sơn Thánh cùng các tướng lãnh về triều bàn kế đánh giặc. Tản Viên Sơn Thánh xin thay nhà vua cầm quân đánh giặc, quân ta chiến đấu dũng cảm phi thường, quân Thục thất bại, nhà vua ban chiếu thu quân rồi phong thưởng cho các tướng sĩ theo cấp bậc khác nhau

Sau khi đánh thắng quân Thục, nhà vua triệu con rể là Tản Viên Sơn Thánh về triều để nhường ngôi, Sơn Thánh từ chối không nhận, tấu lên vua rằng: Cơ đồ 18 đời vua do trời định đoạt, vả lại chúa Thục Phán cũng thuộc tôn phái nhà Hùng chẳng bằng cách nhường nước cho ông ta. Vua Hùng Duệ Vương nghe theo, liền triệu Thục Phán đến nhường ngôi rồi cùng Sơn Thánh, Cao Sơn, Quý Minh thăng thiên hoá sinh bất diệt.”

Các đời vua sau này, đã tôn Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương và Quý Minh Đại Vương là “Tản Viên Sơn tam vị đại vương”, đặc biệt dưới triều Nguyễn đã sắc phong “Tản Viên Sơn tam vị thượng đẳng thần” và truyền cho nhân dân ở những nơi các ngài đã từng chiêu mộ binh sĩ, lập hành cung, đồn sở hoặc chu du tuần thú được lập đền, miếu thờ cúng. Vì thế, vùng đất quanh núi Tản Viên và dọc hai bên sông Hồng có rất nhiều di tích thờ ba vị thần này. Đình Cầu A là một trong những di tích như vậy.

8. Đặc điểm của di tích di tích

Một là: Quá trình hình thành và phát triển của đình Cầu A mang nhiều dấu ấn lịch sử lâu đời, gắn liền với các thời kỳ xây dựng quê hương, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời là địa điểm ẩn chứa dấu ấn lịch sử, cội nguồn về vùng đất, văn hóa và con người Mậu A – Mậu Đông nói riêng, Trấn Yên – Văn Yên nói chung; những giá trị di sản này đã trở thành một phần quan trọng hình thành lên hệ thống tín ngưỡng dân gian những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được bồi đắp qua các thế hệ.

Hai là: Di tích đình Cầu A là sản phẩm văn hóa vật chất chứa đựng giá trị văn hóa tinh thần to lớn, thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, tinh thần đoàn kết cùng ước vọng chinh phục thiên nhiên, mang ước vọng chiến thắng thiên tai, lụt lội suốt ngàn đời của người Việt. Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh cùng Cao Sơn Đại Vương và Quý Minh Đại Vương không chỉ nổi bật về khả năng lan tỏa, sức sống lâu bền mà còn biểu hiện cho tính thống nhất trong sự đa dạng văn hóa của cộng đồng, mang lại sự bình an cho bản thân và mọi người, với nghề nông mong ước mùa màng bội  thu.

Ba là: Hai hạng mục tín ngưỡng, tôn giáo khác được bổ sung trên khuôn viên đình xưa gồm thiết chế thờ Mẫu và thiết chế thờ Phật là minh chứng cho nhu cầu văn hóa – tín ngưỡng đa dạng cũng nhưquá trình tiếp nhận văn hóa cho chọn lọc của của người dân địa phương qua từng thời kỳ lịch sử. Chính điều này dẫn đến đặc điểm “hỗn dung trong đời sống tín ngưỡng – tôn giáo của người Việt..

Bốn là: Đại bộ phận người dân xã Mậu A – Mậu Đông có đời sống kinh tế tiểu nông, hầu hết các hoạt động sinh hoạt, lao động sản xuất đều chịu tác động từ tự nhiên, các hoạt động trong đời sống hàng ngày thường được thực hiện bằng thói quen và những phong tục, tập quán từ lâu đời. Vì vậy, thiết chế đình Cầu A đã trở thành địa điểm để nhân dân các dân tộc địa phương thể hiện niềm tin tâm linh, phô diễn những nét đẹp trong văn hóa phong tục và lối sống truyền thống Việt qua ngàn đời.

9. Phong tục, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của di tích

* Sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng tại di tích trước những năm 70 của thế kỷ XX

Theo thông tin được ghi chép qua hồi cố của các cụ cao tuổi sinh sống trong vùng đất Mậu A – Mậu Đông từ xưa tới nay, những người từng được trực tiếp tham gia phục vụ và chứng kiến lễ hội tại di tích đình Cả (đình Cầu A ngày nay) kể lại thì hàng năm tại đình nhiều hoạt động sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng. Tuy nhiên, lớn nhất có 02 kỳ lễ lớn và được khắc họa lại như sau:

a. Lễ mùa xuân

- Tên gọi khác: Lễ cầu đình, Tiệc chính.

- Thời gian: Ngày 06-07 tháng Giêng.

- Lễ vật:

+ Ban thờ: Dâng 03 mâm lễ thịt gà trống choai cùng gạo tẻ, muối trắng, rượu trắng, hoa tươi, trà nóng, quả chín, tiền vàng, nhang, đèn…

+ Đại bái: Cứ ba năm một lần, tại đình sẽ mổ trâu (trâu đen). Những năm không mổ trâu thì nhân dân sẽ thực hiện mổ lợn tế thịt cả con tại nhà đại bái. Sau lễ tế thì trâu (lợn) tế được đem ra chế biến thành 48 mâm cỗ chín gồm đầy đủ thịt và lòng mang dâng cúng hai bên gian đại bái. Trên 48 mâm cỗ này còn có rượu trắng, tiền vàng, nhang, đèn…Những phần lễ vật này do tất cả các hộ dân trong làng đóng góp (bằng nhau) để sắm sửa, chuẩn bị.

- Công tác chuẩn bị: Để lễ hội đầu năm được diễn ra thành công, công tác chuẩn bị sẽ được thực hiện từ hàng tháng trước, từ việc phân công nhiệm vụ, chuẩn bị lễ vật, chọn trâu (lợn) tế… đến việc chuẩn bị trang phục cho người tham gia tổ chức lễ hội, tập luyện cho đoàn rước, phát dọn xung quanh đình, thay thế, sửa chữa những hạng mục, đồ vật trong đình đã hư hỏng.

- Nghi lễ:

+ Sáng ngày mùng 6 tháng Giêng, tại nhà riêng, ông Mo đình làm lễ báo cáo tổ tiên và bề trên cho phép ông ra đình để làm lễ cầu đình cho dân làng. Lúc này, đoàn rước (02 thầy phụ, đoàn trống, chiêng, đoàn giai khiết (tức giai tân)) của làng đã đứng sẵn trên sân nhà để đợi ông. Sau khi hoàn tất nghi thức tại nhà riêng, ông Mo cùng đoàn rước đi ra đình để chuẩn bị làm lễ.

+ Buổi chiều, ông Mo trong trang phục áo đen thụng truyền thống làm lễ bao sái cho đình. Sau khi cửa đình đóng lại, tổ hậu cần theo sự phân công sẽ thực hiện công việc lau dọn, vệ sinh ban thờ, đồ thờ, không gian trong đình và kiệu rước sạch sẽ.

Sau lễ bao sái, nhà đình cúng tiệc chiều bằng cả lễ mặn và lễ ngọt. Nghi thức này mang ý nghĩa để xin phép thần linh cho dân làng tổ chức lễ hội.

Tối ngày mùng 6, đội hậu cần tiến hành mổ trâu (lợn) để đúng giờ chính Tý (đúng 00h00p) ngày mùng 7 sẽ thực hiện lễ hiến tế trâu (lợn) cả con trước ban thờ. Nghi lễ kéo dài đến hết giờ Tý (hết 1 giờ sáng).

Kết thúc nghi lễ hiến tế, đội hậu cần tiến hành đưa vật hiến tế xuống nhà bếp để chế biến 48 mâm cỗ chuẩn bị cho lễ cúng vào buổi sáng.

8 giờ sáng ngày mùng 7, trong tiếng chiêng, trống rộn ràng, 12 chàng trai khiết rước 3 kiệu đi quanh làng rồi trở về đình, hòa cùng đoàn rước còn có các vị chức sắc trong làng xã cùng đông đảo bà con nhân dân.

Sau khi đoàn rước kiệu trở về và an vị thì nhà đình thực hiện nghi lễ dâng hương, cúng lễ chính hội. Nghi thức này mang ý nghĩa tạ ơn sự che chở, phù hộ của các vị thần linh trước những khó khăn, khắc nghiệt do thiên tai gây ra, đồng thời cầu xin các vị thần linh ban cho quốc thái dân an, dân làng sức khỏe, mưa thuận gió hòa, cây cối không sâu bệnh, con gà, con lợn mạnh khỏe, sinh sôi...

Cuối cùng là phần dâng hương của các vị chức sắc và toàn thể người dân trong làng, xã. Nghi lễ kéo dài trong 3 tuần hương.

Kết thúc phần nghi lễ trang trọng, tôn nghiêm, ông Mo đình thay mặt nhân dân làm lễ tạ, xin hạ lễ và cùng nhau thụ lộc ngay tại đình.

- Phần hội: Phần hội mùa xuân tại đình được diễn ra vào buổi chiều của ngày lễ bằng chương trình biểu diễn dân ca, dân vũ cùng nhiều trò chơi dân gian, như: chơi cờ người, ném còn, đẩy gậy, kéo co, đấu vật,... Các hoạt động văn hóa, thể thao này phản ánh đời sống tinh thần phong phú, đa dạng của người dân nơi đây. Mọi người hăng hái, cùng nhau tham gia để mong cả năm được vui vẻ, khỏe mạnh; mong giành chiến thắng để cả năm gặp nhiều may mắn.

- Kiêng kỵ: Không.

b. Lễ mùa thu

- Tên gọi khác: Lễ tháng bảy, Lễ đón cơm mới.

- Thời gian: Ngày 16-17/7 Âm lịch.

- Lễ vật: Ngoài 03 mâm lễ gà thì trên ban thờ tại đình còn có gạo, muối trắng, rượu trắng, hương thơm, hoa tươi, trà nóng, quả chín, tiền vàng, đèn dầu…

Cũng giống như kỳ lễ diễn ra vào mùa xuân, những phần lễ vật này cũng do tất cả các hộ dân trong làng đóng góp (bằng nhau) để sắm sửa, chuẩn bị.

- Công tác chuẩn bị: Tuy quy mô và tính chất không lớn như lễ hội đầu năm, nhưng lễ mùa thu tại đình cũng phải tiến hành chuẩn bị từ nhiều ngày trước kỳ lễ bằng việc phân công nhiệm vụ, chuẩn bị lễ vật,…

- Nghi lễ:

Buổi chiều ngày 16/7, nhà đình tiến hành làm lễ bao sái, thực hiện công việc lau dọn, vệ sinh ban thờ, đồ thờ, không gian trong đình theo sự phân công từ trước. Sau đó, ông Mo thực hiện nghi lễ đóng cửa đình để chuẩn bị cho ngày lễ chính diễn ra vào ngày hôm sau. Buổi chiều cùng ngày, theo sự phân công từ trước, mọi người chủ động thực hiện những công việc được giao để chuẩn bị cho ngày lễ chính.

Sáng sớm ngày 17/7, đội hậu cần gấp rút hoàn thiện những công việc cuối cùng. Sau khi đảm bảo công tác chuẩn bị đã hoàn tất, ông Mo đình lại thay mặt các vị chức sắc trong làng, trong xã lên hương, thỉnh/mời các vị thần linh về ngự giám, dự lễ đón cơm mới cùng với dân làng. Đồng thời xin cho dân làng một mùa vụ bội thu, no đủ cả năm. Cuối cùng là phần dâng hương của các chức sắc và toàn thể người dân trong làng, xã. Nghi lễ kéo dài trong 3 tuần hương.

Kết thúc phần nghi lễ trang trọng, tôn nghiêm, ông Mo đình thay mặt nhân dân thực hiện nghi thức tạ lễ, hạ lễ và cùng nhau thụ lộc ngay tại đình.

- Phần hội: Không.

- Kiêng kỵ: Không.

Ngoài ra, từ cuối thế kỷ XIX, tại hai thiết chế nhỏ là miếu (thờ vọng Mẫu Đông Cuông) và am nhỏ (thờ Phật) trong khuôn viên sân đình cũng diễn ra các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng gắn với những tín ngưỡng thuần Việt và văn hóa Phật giáo truyền thống. Đồng thời, trong hai dịp lễ lớn của nhà đình, tại hai thiết chế trong khuôn viên đình là miếu thờ vọng Mẫu Đông Cuông và am thờ Phật cũng làm lễ dâng hương, báo cáo việc dân làng tổ chức lễ hội Cầu đình. Trong đó, lễ vật dâng tại miếu là lễ mặn (xôi, thịt, rượu…) còn ở am là lễ chay (hoa quả, oản phẩm, bánh kẹo, bỏng nổ…).

* Sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng tại di tích sau những năm 70 của thế kỷ XX

Từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX đến đầu những năm 2010, sau khi đình Cầu A cùng các công trình tín ngưỡng, tôn giáo khác trên khuôn viên đình bị mai một. Do không còn các thiết chế cùng tác động của hoàn cảnh lịch sử, bối cảnh xã hội, cho nên các hoạt động sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng và lễ hội truyền thống tại di tích cũng không còn được duy trì, tổ chức. Từ đó, cùng với các hạng mục kiến trúc, các hoạt động sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng và lễ hội truyền thống bị mai một và hiện vẫn chưa được phục hồi lại hoàn toàn như trước.

(Bài viết có sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái cung cấp)

 

 

 

 

 

362 lượt xem
Ban Biên tập

15oC

Thấp nhất 13°C, cao nhất 17°C. Trời nhiều mây, . Áp suất không khí hPa.
Độ ẩm trung bình %. Tốc độ gió km/h