CTTĐT - Ngày 26/12/2018, UBND tỉnh Yên Bái đã ký Quyết định số 2841/QĐ-UBND công nhận đền Trái Hút xã An Bình, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái là di tích cấp tỉnh.
Di tích lịch sử đền Trái Hút, xã An Bình, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái
1. Tên gọi di tích
Di tích đền Trái Hút, xã An Bình, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái
2. Loại hình di tích
Di tích đền Trái Hút, xã An Bình, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái được xếp vào loại hình di tích cấp tỉnh
3. Quyết định công nhận di tích cấp tỉnh
Quyết định số 2841/QĐ-UBND ngày 26/12/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận đền Trái Hút, xã An Bình, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái là di tích cấp tỉnh.
4. Địa điểm di tích
Di tích đền Trái Hút thuộc địa phận thôn Trái Hút, cách trụ sở xã An Bình 2,5km; cách huyện lỵ Văn Yên (thị trấn Mậu A) 16km; cách trung tâm tỉnh Yên Bái (km5) 56km, diện tích khoanh vùng bảo vệ di tích: 3.730,5m2.
5. Đường đi đến di tích
Để đến được di tích đền Trái Hút, xã An Bình, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, du khách có thể di chuyển bằng đường bộ và đường sắt rất thuận lợi:
- Đường bộ:
+ Từ thành phố Yên Bái đi theo đường tỉnh lộ 163 (Yên Bái-Khe Sang), đến xã An Bình vào thôn Trái Hút là tới di tích.
+ Đi đường cao tốc Nội Bài-Lào Cai-Hà Nội, xuống nút giao IC14 (xã An Thịnh), qua cầu Mậu A đi theo đường tỉnh lộ 163 (Mậu A-Lâm Giang), đến xã An Bình là tới di tích.
- Đường sắt:
+ Đi đường sắt Hà Nội-Lào Cai-Hà Nội, đến ga Trái Hút (xã Trái Hút) vào thôn Trái Hút là tới di tích.
6. Sơ lược lịch sử di tích
Di tích đền Trái Hút khởi dựng từ thời Nguyễn (khoảng cuối thể kỷ XIX, đầu thế kỷ XX), là sự kế thừa, kết nối dòng chảy lịch sử văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam và lịch sử, truyền thống văn hóa vùng đất An Bình xưa và nay. Di tích chứa đựng những giá trị lịch sử, văn hóa, sự kiện quan trọng của địa phương, góp phần tạo nên vùng đất “linh thiêng” và nền văn minh sông Hồng đã có hàng ngàn năm.
* Kiến trúc của đền (trước năm 1961): Bà Nguyễn Thị Thanh (85 tuổi), bà Vũ Thị Xuyến (90 tuổi) cùng một số cụ già tại thôn kể: “Đền có kiến trúc 3 gian, hình “chuôi Vồ”-[T], cột gỗ, 2 vì kèo, hai đầu hồi và tường xây bằng gạch, lợp ngói mũi, câu đầu, đấu đầu kèo... chạm trổ long ly, quy, phượng, đầu đao mái đền cong, trên mái đền có long chầu mặt nguyệt”.
Năm 1961, Chính quyền xã An Bình chỉ đạo, huy động lực lượng dân quân và nhân dân tháo dỡ đền. Sau khi tháo dỡ đền, tượng Mẫu đem về gửi đền Đông Cuông, đồ thờ tự đã hóa “đốt”, một số thả trôi sông, một số ít người dân mang về cất giữ làm đồ thờ trong gia đình.
* Các mốc thời gian thay địa giới hành chính của di tích đền Trái Hút
Xã An Bình nằm ở tả ngạn Sông Hồng. Trước năm 1950, xã An Bình ngày nay, gồm hai xã Trái Hút thuộc huyện Trấn Yên, tỉnh Hưng Hóa (nay là tỉnh Yên Bái), xã An Bình thuộc châu Lục Yên, phủ Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang. Phía Đông Bắc giáp xã Quang Minh (huyện Văn Yên) và xã Khánh Hòa (huyện Lục Yên); phía Đông Nam giáp xã Đông Cuông; phía Tây Bắc giáp xã Lâm Giang; phía Tây Nam giáp sông Hồng.
Xưa kia An Bình dùng để chỉ vùng đất thuộc vùng đất châu Lục Yên, phủ Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang. Nằm sát dưới chân dãy núi con Voi, bên hữu ngạn sông Chảy với các làng là làng Chỏ, làng Khê Sở, làng Lô, xóm Khê Chê, có 100% dân số là tộc người Mán (trích Báo cáo số 40BK/TY, ngày 16/12/1958 của Ban Chấp hành huyện Trấn Yên). Nằm sát bên cạnh xã An Bình về phía Đông Nam là xã Trại Hút gồm các xóm Ngòi Lầm là xóm Trái Hút, dân cư sinh sống tại đây chủ yếu là người Kinh và một số ít người Thái, Thổ (Lịch sử Đảng bộ xã An Bình 1945-2010 - Ban Chấp hành Đảng bộ xã An Bình, xuất bản năm 2014).
Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), để tăng cường sự thống nhất hành chính, Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên, đổi lộ làm phủ, đổi trấn làm châu. Năm thứ 10 (1469), Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả nước để thống nhất các phủ, huyện và thành lập huyện Trấn Yên. Theo đó vùng đất Trái Hút ngày nay thuộc huyện Trấn Yên, phủ Quy Hóa, thừa tuyên Hưng Hóa (vùng đất xã An Bình cũ thuộc tỉnh Tuyên Quang). Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đạo thừa tuyên Hưng Hóa đổi thành xứ Hưng Hóa. Sang đầu đời Hồng Thuận (1509- 1516) đổi thành trấn Hưng Hóa.
Năm Gia Long thứ 1 (1802), đổi gọi là trấn Hưng Hóa thuộc Bắc Thành tổng trấn. Theo đó vùng đất Trái Hút thuộc trang Đông Quang , huyện Trấn An (Trấn Yên), phủ Quy Hóa, trấn Hưng Hóa thuộc Bắc Thành tổng trấn (vùng đất xã An Bình cũ thuộc tỉnh Tuyên Quang).
Năm Minh Mạng thứ 12(1831), lấy huyện Tam Nông của Sơn Tây lệ vào, đôi thành tỉnh Hưng Hóa. Đất đai vùng đất Trái Hút thuộc tổng Đông Quang, huyện Trân Yên, phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa (xã An Bình cũ thuộc tỉnh Tuyên Quang). Thời Đồng Khánh (1885-1889) vùng đất Trái Hút ngày nay thuộc tổng Đông Quang, phủ Quy Hóa, huyện Trấn Yên, tỉnh Hưng Hóa (vùng đất xã An Bình cũ thuộc châu Lục Yên, phủ Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang).
Ngày 11/4/1900, Pháp thành lập tỉnh Yên Bái (gồm huyện Trấn Yên, Văn Chấn, Văn Bàn, Lục Yên và châu Than Uyên ), xã Trái Hút thuộc tổng Đông Cuông, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái (vùng đất xã An Bình cũ thuộc châu Lục Yên, phủ Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang). Năm 1931, Công sứ Bắc Kỳ quyết định sáp nhập phủ Yên Bình tỉnh Tuyên Quang vào tỉnh Yên Bái, theo đó An Bình thuộc huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái.
Ngày 13/11/1950, ủy ban hành chính kháng chiến Liên khu Việt Bắc ra Quyết định số: 768-QĐ-P5 về chuẩn y việc họp nhất các xã thuộc hai huyện Trấn Yên và Lục Yến, trong đó có thành lập xã Đông Cuông, Bạch Tộc, An Bình (trang 2, tờ lưu sổ 245 QĐ/P5-768 lưu trữ tại TTLTQGHP).
Ngày 16/12/1964, thành lập huyện Văn Yên , theo đó xã An Bình thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (Ngày 1/3/1965, lễ bàn giao và tiếp nhận huyện được tố chức tại hội trường của Hợp tác xã Ba Soi-Thọ Lâm, nay là khuôn viên nhà văn hóa thôn 1-Kim Yên, xã Lâm Giang. Từ đây, huyện Văn Yên chính thức đi vào hoạt động và lấy ngày 1/3 hàng năm là ngày thành lập huyện). Ngày 27/12/1975, hợp nhất ba tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn. Theo đó, xã An Bình thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Hoàng Liên Sơn. Ngày 12/8/1991, chia tách tỉnh Hoàng Liên Sơn thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Theo đó, xã An Bình thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Từ đó đến nay địa danh, địa giới xã An Bình không thay đổi.
* Sự kiện liên quan đến di tích: Trong chiến dịch Lý Thường Kiệt (1951), chiến dịch Tây Bắc (1952) trong thời gian chờ đợi thuyền chở qua sông Hồng vào giải phóng Nghĩa Lộ, địa bàn xã An Bình là điểm dừng chân của bộ đội, dân công, trong đó có khu vực đền Trái Hút (Ghi theo lời kế của các cụ già trong xã An Bình).
Năm 1961, nhân dân địa phương tháo dỡ đền, am.
7. Các nhân vật được thờ tự
Đền Trái Hút thờ vọng đền Mẫu Đông Cuông “Đông Cuông vọng từ”, “Vọng Mẫu linh từ tại”.
Tượng thờ, đồ thờ: Tượng Mẫu, tượng Ngọc Hoàng, tượng Ngũ Vị Tôn Ông, tượng Cô, tượng Cậu, tượng Đức Thánh Trần, lư hương, mâm bồng, lọ hoa, lọ lục bình, bát hương, cây nến, đỉnh, lọng, hoành phi, câu đối ... bên dưới ban công đồng thờ Quan Ngũ Hổ; bên trên ban thờ Mẫu có 2 ông Rắn.
8. Hiện vật còn lại của di tích
- 01 đỉnh đồng; 01 chuông đồng;
- 01 mâm đồng (đường kính 50cm);
- 01 bản mộc có khắc hình long chầu mặt nguyệt.
9. Đặc điểm của di tích di tích
- Dấu ấn lịch sử, cội nguồn: Đền Trái Hút thờ vọng Mẫu đền Đông Cuông “Đông Cuông vọng từ”. “Thờ vọng” là một phong tục tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ xa xưa, thể hiện đạo lý, tình cảm thiêng liêng của người xa quê luôn hướng về quê cha đất mẹ, nhớ về cội nguồn dân tộc.
- Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự kế thừa, kết nối dòng chảy lịch sử văn hóa truyền thống Việt có từ hàng ngàn năm, là một phần quan trọng của lịch sử, văn hóa, xã hội của vùng đất An Bình xưa và nay.
- Dấu ấn lối sống và dấu ấn tôn giáo, tín ngưỡng: Tín ngưỡng thờ Mẫu hướng đến cuộc sống thực tại của con người với ước vọng sức khỏe, tài lộc, may mắn, là một nhu cầu trong đời sống tâm linh của người Việt, mang lại cho họ sức mạnh, niềm tin, sống hướng thiện, có tâm trong sáng, biết đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà tổ tiên, biết ơn những người có công với dân, với nước và sự gắn kết cộng đồng.
- Di tích đền Trái Hút có kiến trúc hình “chuôi Vồ”-[T] tường xây, mái lợp ngói, đao mái cong, trên mái có long chầu mặt nguyệt.... giống với các ngôi đền ở vùng Trung du, đồng bằng Bắc Bộ. Đền tọa lạc bên sông Hồng, mặt chính diện hướng Nam, lưng tựa núi con Voi, tạo cho đền hài hòa với thiên nhiên “sơn thủy hữu tình”, thoáng nhưng lại uy nghiêm và linh thiêng. Đồn và Am nằm cạnh nhau, tạo thành quần thể di tích hình chữ “Nhị”- [.], cấu trúc kiểu này vẫn thường thấy ở làng quê Bắc Bộ.
10. Phong tục, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của di tích
* Tiệc đầu năm mới (Lễ tết Thượng Nguyên)
- Thời gian: Ngày Rằm tháng Giêng. Trước ngày lễ chính, ông (bà) Thủ nhang cùng với các vị đại diện giới chức sắc, dân làng mang 1 lễ đến đền Mẫu Đông Cuông xin Mẫu cho dân làng tổ chức tiệc đầu năm mới ở đền Trái Hút.
- Lễ vật: Nhà đền mổ 1 con trâu đen (mổ trâu vào giờ tý) cùng với các lễ vật: gà, xôi nếp, bánh chưng, bánh dày, hương hoa, đồ vàng mã...
- Nghi lễ: Sau khi công tác chuẩn bị xong, lễ vật dâng lên ban thờ, ông Thủ nhang thay mặt cho các vị chức sắc, dân làng kính cáo, tạ ơn công đức của Thánh Mẫu, chư thần đã phù hộ cho dân làng mạnh khỏe, cuộc sống bình yên, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi nảy nở; thỉnh cầu Thánh Mẫu, chư thần hiển linh phù hộ cho dân làng năm mới tốt đẹp, vạn sự như ý. Nhà đền và dân làng, khách thập phương rước Mẫu và hát chầu văn ca ngợi công đức Thánh Mẫu.
- Phần hội: Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, trò chơi dân gian: Hát chèo, kéo co, đẩy gậy, đánh vật, cờ tướng, chọi gà...Trong ngày này, ngoài các nghi lễ cúng tế ở đền, dân làng cùng với thiện nam, tín nữ, phật tử, khách thập phương còn sắm lễ cúng Phật, tụng kinh, niệm Phật, cầu quốc thái, dân an ở trong Am.
* Tiệc Mẫu (Giỗ Mẫu)
- Thời gian: Ngày 3/3 âm lịch.
- Lễ vật: Gồm có 1 con lợn, gà, xôi nếp, bánh chưng, bánh dày, oản, hương hoa, đồ mã...
- Nghi lễ: Đêm mùng 2, ông (bà) Thủ nhang và nhà đền tổ chức Lễ Yết cáo (Cáo yết), xin mở tiệc giỗ Mẫu. Sáng mùng 3 Lễ Đại tế.
+ Lễ Yết cáo: Ông Thủ nhang, các vị chức sắc, nhân dân trong xã dâng hương, dâng hoa cúng tế xin Mẫu cho làng mở tiệc giỗ Mẫu.
+ Lễ Đại tế: Tổ chức lễ tế Thánh Mẫu, rước cỗ tiến Thánh, diễn xướng hầu đồng ca ngợi công đức Thánh Mẫu, cầu xin Mẫu và chư thần phù hộ bình an, cầu tài, cầu lộc, cầu phúc, cầu quốc thái dân an...
* Lễ Tết Trung Nguyên
- Thời gian: Rằm tháng Bảy.
- Lễ vật: 1 mâm lễ mặn, 1 mâm lễ chay.
- Nghi lễ: Ông Thủ nhang thay mặt nhân dân trong làng, trong xã tạ ơn Thánh Mẫu, Thánh Thần đã phù hộ cho nhân dân khỏe mạnh, mùa màng bội thu và thỉnh cầu Thánh Mẫu, Thánh Thần tiếp tục phù hộ, che chở cho nhân dân để có cuộc sống bình yên, hạnh phúc.
Lễ Tết Trung Nguyên còn gọi là Xá tội vong nhân và lễ Vu lan báo hiếu. Gắn với các hoạt động nghi lễ cúng Mẫu ở đền, nhà đền và nhân dân trong xã và vùng lân cận còn sắm lễ đến đền, vào Am cúng cầu siêu cho các linh hồn siêu thoát, xá tội để vong hồn thoát khỏi địa ngục lên dương gian...
Lễ Vu lan báo hiếu mang ý nghĩa báo ân, báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên và thể hiện đạo lý "Uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam.
* Lễ Mừng cơm mới
- Thời gian: Rằm tháng Chín
- Lễ vật: Mổ 1 con lợn, gà, vịt, cốm, cơm mới, bánh, hoa quả...
- Nghi lễ: Ông (bà) Thủ nhang thay mặt dân làng tạ ơn Thánh Mẫu, các vị Thần linh đã phù hộ cho dân làng một vụ mùa bội thu. Hôm nay làng tố chức Lễ mừng cơm mới, Thánh Mẫu, các vị Thần linh chứng giám lòng thành và mời Thánh Mẫu, Thần linh về chung vui với nhân dân.
Đền Trái Hút là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh của cộng đồng các dân tộc xã An Bình và trong vùng để cầu sức khỏe, cầu phúc, cầu lộc, cầu tài, vạn vật sinh sôi nảy nở; là nơi bảo tồn, lưu giữ các báu vật về tinh thần và vật
117 lượt xem
Ban Biên tập
Cổng thông tin điện tử tỉnh - Ngày 26/12/2018, UBND tỉnh Yên Bái đã ký Quyết định số 2841/QĐ-UBND công nhận đền Trái Hút xã An Bình, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái là di tích cấp tỉnh.1. Tên gọi di tích
Di tích đền Trái Hút, xã An Bình, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái
2. Loại hình di tích
Di tích đền Trái Hút, xã An Bình, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái được xếp vào loại hình di tích cấp tỉnh
3. Quyết định công nhận di tích cấp tỉnh
Quyết định số 2841/QĐ-UBND ngày 26/12/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận đền Trái Hút, xã An Bình, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái là di tích cấp tỉnh.
4. Địa điểm di tích
Di tích đền Trái Hút thuộc địa phận thôn Trái Hút, cách trụ sở xã An Bình 2,5km; cách huyện lỵ Văn Yên (thị trấn Mậu A) 16km; cách trung tâm tỉnh Yên Bái (km5) 56km, diện tích khoanh vùng bảo vệ di tích: 3.730,5m2.
5. Đường đi đến di tích
Để đến được di tích đền Trái Hút, xã An Bình, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, du khách có thể di chuyển bằng đường bộ và đường sắt rất thuận lợi:
- Đường bộ:
+ Từ thành phố Yên Bái đi theo đường tỉnh lộ 163 (Yên Bái-Khe Sang), đến xã An Bình vào thôn Trái Hút là tới di tích.
+ Đi đường cao tốc Nội Bài-Lào Cai-Hà Nội, xuống nút giao IC14 (xã An Thịnh), qua cầu Mậu A đi theo đường tỉnh lộ 163 (Mậu A-Lâm Giang), đến xã An Bình là tới di tích.
- Đường sắt:
+ Đi đường sắt Hà Nội-Lào Cai-Hà Nội, đến ga Trái Hút (xã Trái Hút) vào thôn Trái Hút là tới di tích.
6. Sơ lược lịch sử di tích
Di tích đền Trái Hút khởi dựng từ thời Nguyễn (khoảng cuối thể kỷ XIX, đầu thế kỷ XX), là sự kế thừa, kết nối dòng chảy lịch sử văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam và lịch sử, truyền thống văn hóa vùng đất An Bình xưa và nay. Di tích chứa đựng những giá trị lịch sử, văn hóa, sự kiện quan trọng của địa phương, góp phần tạo nên vùng đất “linh thiêng” và nền văn minh sông Hồng đã có hàng ngàn năm.
* Kiến trúc của đền (trước năm 1961): Bà Nguyễn Thị Thanh (85 tuổi), bà Vũ Thị Xuyến (90 tuổi) cùng một số cụ già tại thôn kể: “Đền có kiến trúc 3 gian, hình “chuôi Vồ”-[T], cột gỗ, 2 vì kèo, hai đầu hồi và tường xây bằng gạch, lợp ngói mũi, câu đầu, đấu đầu kèo... chạm trổ long ly, quy, phượng, đầu đao mái đền cong, trên mái đền có long chầu mặt nguyệt”.
Năm 1961, Chính quyền xã An Bình chỉ đạo, huy động lực lượng dân quân và nhân dân tháo dỡ đền. Sau khi tháo dỡ đền, tượng Mẫu đem về gửi đền Đông Cuông, đồ thờ tự đã hóa “đốt”, một số thả trôi sông, một số ít người dân mang về cất giữ làm đồ thờ trong gia đình.
* Các mốc thời gian thay địa giới hành chính của di tích đền Trái Hút
Xã An Bình nằm ở tả ngạn Sông Hồng. Trước năm 1950, xã An Bình ngày nay, gồm hai xã Trái Hút thuộc huyện Trấn Yên, tỉnh Hưng Hóa (nay là tỉnh Yên Bái), xã An Bình thuộc châu Lục Yên, phủ Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang. Phía Đông Bắc giáp xã Quang Minh (huyện Văn Yên) và xã Khánh Hòa (huyện Lục Yên); phía Đông Nam giáp xã Đông Cuông; phía Tây Bắc giáp xã Lâm Giang; phía Tây Nam giáp sông Hồng.
Xưa kia An Bình dùng để chỉ vùng đất thuộc vùng đất châu Lục Yên, phủ Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang. Nằm sát dưới chân dãy núi con Voi, bên hữu ngạn sông Chảy với các làng là làng Chỏ, làng Khê Sở, làng Lô, xóm Khê Chê, có 100% dân số là tộc người Mán (trích Báo cáo số 40BK/TY, ngày 16/12/1958 của Ban Chấp hành huyện Trấn Yên). Nằm sát bên cạnh xã An Bình về phía Đông Nam là xã Trại Hút gồm các xóm Ngòi Lầm là xóm Trái Hút, dân cư sinh sống tại đây chủ yếu là người Kinh và một số ít người Thái, Thổ (Lịch sử Đảng bộ xã An Bình 1945-2010 - Ban Chấp hành Đảng bộ xã An Bình, xuất bản năm 2014).
Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), để tăng cường sự thống nhất hành chính, Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên, đổi lộ làm phủ, đổi trấn làm châu. Năm thứ 10 (1469), Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả nước để thống nhất các phủ, huyện và thành lập huyện Trấn Yên. Theo đó vùng đất Trái Hút ngày nay thuộc huyện Trấn Yên, phủ Quy Hóa, thừa tuyên Hưng Hóa (vùng đất xã An Bình cũ thuộc tỉnh Tuyên Quang). Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đạo thừa tuyên Hưng Hóa đổi thành xứ Hưng Hóa. Sang đầu đời Hồng Thuận (1509- 1516) đổi thành trấn Hưng Hóa.
Năm Gia Long thứ 1 (1802), đổi gọi là trấn Hưng Hóa thuộc Bắc Thành tổng trấn. Theo đó vùng đất Trái Hút thuộc trang Đông Quang , huyện Trấn An (Trấn Yên), phủ Quy Hóa, trấn Hưng Hóa thuộc Bắc Thành tổng trấn (vùng đất xã An Bình cũ thuộc tỉnh Tuyên Quang).
Năm Minh Mạng thứ 12(1831), lấy huyện Tam Nông của Sơn Tây lệ vào, đôi thành tỉnh Hưng Hóa. Đất đai vùng đất Trái Hút thuộc tổng Đông Quang, huyện Trân Yên, phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa (xã An Bình cũ thuộc tỉnh Tuyên Quang). Thời Đồng Khánh (1885-1889) vùng đất Trái Hút ngày nay thuộc tổng Đông Quang, phủ Quy Hóa, huyện Trấn Yên, tỉnh Hưng Hóa (vùng đất xã An Bình cũ thuộc châu Lục Yên, phủ Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang).
Ngày 11/4/1900, Pháp thành lập tỉnh Yên Bái (gồm huyện Trấn Yên, Văn Chấn, Văn Bàn, Lục Yên và châu Than Uyên ), xã Trái Hút thuộc tổng Đông Cuông, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái (vùng đất xã An Bình cũ thuộc châu Lục Yên, phủ Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang). Năm 1931, Công sứ Bắc Kỳ quyết định sáp nhập phủ Yên Bình tỉnh Tuyên Quang vào tỉnh Yên Bái, theo đó An Bình thuộc huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái.
Ngày 13/11/1950, ủy ban hành chính kháng chiến Liên khu Việt Bắc ra Quyết định số: 768-QĐ-P5 về chuẩn y việc họp nhất các xã thuộc hai huyện Trấn Yên và Lục Yến, trong đó có thành lập xã Đông Cuông, Bạch Tộc, An Bình (trang 2, tờ lưu sổ 245 QĐ/P5-768 lưu trữ tại TTLTQGHP).
Ngày 16/12/1964, thành lập huyện Văn Yên , theo đó xã An Bình thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (Ngày 1/3/1965, lễ bàn giao và tiếp nhận huyện được tố chức tại hội trường của Hợp tác xã Ba Soi-Thọ Lâm, nay là khuôn viên nhà văn hóa thôn 1-Kim Yên, xã Lâm Giang. Từ đây, huyện Văn Yên chính thức đi vào hoạt động và lấy ngày 1/3 hàng năm là ngày thành lập huyện). Ngày 27/12/1975, hợp nhất ba tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn. Theo đó, xã An Bình thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Hoàng Liên Sơn. Ngày 12/8/1991, chia tách tỉnh Hoàng Liên Sơn thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Theo đó, xã An Bình thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Từ đó đến nay địa danh, địa giới xã An Bình không thay đổi.
* Sự kiện liên quan đến di tích: Trong chiến dịch Lý Thường Kiệt (1951), chiến dịch Tây Bắc (1952) trong thời gian chờ đợi thuyền chở qua sông Hồng vào giải phóng Nghĩa Lộ, địa bàn xã An Bình là điểm dừng chân của bộ đội, dân công, trong đó có khu vực đền Trái Hút (Ghi theo lời kế của các cụ già trong xã An Bình).
Năm 1961, nhân dân địa phương tháo dỡ đền, am.
7. Các nhân vật được thờ tự
Đền Trái Hút thờ vọng đền Mẫu Đông Cuông “Đông Cuông vọng từ”, “Vọng Mẫu linh từ tại”.
Tượng thờ, đồ thờ: Tượng Mẫu, tượng Ngọc Hoàng, tượng Ngũ Vị Tôn Ông, tượng Cô, tượng Cậu, tượng Đức Thánh Trần, lư hương, mâm bồng, lọ hoa, lọ lục bình, bát hương, cây nến, đỉnh, lọng, hoành phi, câu đối ... bên dưới ban công đồng thờ Quan Ngũ Hổ; bên trên ban thờ Mẫu có 2 ông Rắn.
8. Hiện vật còn lại của di tích
- 01 đỉnh đồng; 01 chuông đồng;
- 01 mâm đồng (đường kính 50cm);
- 01 bản mộc có khắc hình long chầu mặt nguyệt.
9. Đặc điểm của di tích di tích
- Dấu ấn lịch sử, cội nguồn: Đền Trái Hút thờ vọng Mẫu đền Đông Cuông “Đông Cuông vọng từ”. “Thờ vọng” là một phong tục tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ xa xưa, thể hiện đạo lý, tình cảm thiêng liêng của người xa quê luôn hướng về quê cha đất mẹ, nhớ về cội nguồn dân tộc.
- Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự kế thừa, kết nối dòng chảy lịch sử văn hóa truyền thống Việt có từ hàng ngàn năm, là một phần quan trọng của lịch sử, văn hóa, xã hội của vùng đất An Bình xưa và nay.
- Dấu ấn lối sống và dấu ấn tôn giáo, tín ngưỡng: Tín ngưỡng thờ Mẫu hướng đến cuộc sống thực tại của con người với ước vọng sức khỏe, tài lộc, may mắn, là một nhu cầu trong đời sống tâm linh của người Việt, mang lại cho họ sức mạnh, niềm tin, sống hướng thiện, có tâm trong sáng, biết đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà tổ tiên, biết ơn những người có công với dân, với nước và sự gắn kết cộng đồng.
- Di tích đền Trái Hút có kiến trúc hình “chuôi Vồ”-[T] tường xây, mái lợp ngói, đao mái cong, trên mái có long chầu mặt nguyệt.... giống với các ngôi đền ở vùng Trung du, đồng bằng Bắc Bộ. Đền tọa lạc bên sông Hồng, mặt chính diện hướng Nam, lưng tựa núi con Voi, tạo cho đền hài hòa với thiên nhiên “sơn thủy hữu tình”, thoáng nhưng lại uy nghiêm và linh thiêng. Đồn và Am nằm cạnh nhau, tạo thành quần thể di tích hình chữ “Nhị”- [.], cấu trúc kiểu này vẫn thường thấy ở làng quê Bắc Bộ.
10. Phong tục, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của di tích
* Tiệc đầu năm mới (Lễ tết Thượng Nguyên)
- Thời gian: Ngày Rằm tháng Giêng. Trước ngày lễ chính, ông (bà) Thủ nhang cùng với các vị đại diện giới chức sắc, dân làng mang 1 lễ đến đền Mẫu Đông Cuông xin Mẫu cho dân làng tổ chức tiệc đầu năm mới ở đền Trái Hút.
- Lễ vật: Nhà đền mổ 1 con trâu đen (mổ trâu vào giờ tý) cùng với các lễ vật: gà, xôi nếp, bánh chưng, bánh dày, hương hoa, đồ vàng mã...
- Nghi lễ: Sau khi công tác chuẩn bị xong, lễ vật dâng lên ban thờ, ông Thủ nhang thay mặt cho các vị chức sắc, dân làng kính cáo, tạ ơn công đức của Thánh Mẫu, chư thần đã phù hộ cho dân làng mạnh khỏe, cuộc sống bình yên, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi nảy nở; thỉnh cầu Thánh Mẫu, chư thần hiển linh phù hộ cho dân làng năm mới tốt đẹp, vạn sự như ý. Nhà đền và dân làng, khách thập phương rước Mẫu và hát chầu văn ca ngợi công đức Thánh Mẫu.
- Phần hội: Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, trò chơi dân gian: Hát chèo, kéo co, đẩy gậy, đánh vật, cờ tướng, chọi gà...Trong ngày này, ngoài các nghi lễ cúng tế ở đền, dân làng cùng với thiện nam, tín nữ, phật tử, khách thập phương còn sắm lễ cúng Phật, tụng kinh, niệm Phật, cầu quốc thái, dân an ở trong Am.
* Tiệc Mẫu (Giỗ Mẫu)
- Thời gian: Ngày 3/3 âm lịch.
- Lễ vật: Gồm có 1 con lợn, gà, xôi nếp, bánh chưng, bánh dày, oản, hương hoa, đồ mã...
- Nghi lễ: Đêm mùng 2, ông (bà) Thủ nhang và nhà đền tổ chức Lễ Yết cáo (Cáo yết), xin mở tiệc giỗ Mẫu. Sáng mùng 3 Lễ Đại tế.
+ Lễ Yết cáo: Ông Thủ nhang, các vị chức sắc, nhân dân trong xã dâng hương, dâng hoa cúng tế xin Mẫu cho làng mở tiệc giỗ Mẫu.
+ Lễ Đại tế: Tổ chức lễ tế Thánh Mẫu, rước cỗ tiến Thánh, diễn xướng hầu đồng ca ngợi công đức Thánh Mẫu, cầu xin Mẫu và chư thần phù hộ bình an, cầu tài, cầu lộc, cầu phúc, cầu quốc thái dân an...
* Lễ Tết Trung Nguyên
- Thời gian: Rằm tháng Bảy.
- Lễ vật: 1 mâm lễ mặn, 1 mâm lễ chay.
- Nghi lễ: Ông Thủ nhang thay mặt nhân dân trong làng, trong xã tạ ơn Thánh Mẫu, Thánh Thần đã phù hộ cho nhân dân khỏe mạnh, mùa màng bội thu và thỉnh cầu Thánh Mẫu, Thánh Thần tiếp tục phù hộ, che chở cho nhân dân để có cuộc sống bình yên, hạnh phúc.
Lễ Tết Trung Nguyên còn gọi là Xá tội vong nhân và lễ Vu lan báo hiếu. Gắn với các hoạt động nghi lễ cúng Mẫu ở đền, nhà đền và nhân dân trong xã và vùng lân cận còn sắm lễ đến đền, vào Am cúng cầu siêu cho các linh hồn siêu thoát, xá tội để vong hồn thoát khỏi địa ngục lên dương gian...
Lễ Vu lan báo hiếu mang ý nghĩa báo ân, báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên và thể hiện đạo lý "Uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam.
* Lễ Mừng cơm mới
- Thời gian: Rằm tháng Chín
- Lễ vật: Mổ 1 con lợn, gà, vịt, cốm, cơm mới, bánh, hoa quả...
- Nghi lễ: Ông (bà) Thủ nhang thay mặt dân làng tạ ơn Thánh Mẫu, các vị Thần linh đã phù hộ cho dân làng một vụ mùa bội thu. Hôm nay làng tố chức Lễ mừng cơm mới, Thánh Mẫu, các vị Thần linh chứng giám lòng thành và mời Thánh Mẫu, Thần linh về chung vui với nhân dân.
Đền Trái Hút là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh của cộng đồng các dân tộc xã An Bình và trong vùng để cầu sức khỏe, cầu phúc, cầu lộc, cầu tài, vạn vật sinh sôi nảy nở; là nơi bảo tồn, lưu giữ các báu vật về tinh thần và vật
Các bài khác
- Di tích cấp tỉnh đình và miếu Bản Phố, xã Mai Sơn, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (14/04/2025)
- Di tích lịch sử cấp tỉnh đình Cầu A, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (21/02/2025)
- Di tích lịch sử cấp tỉnh đình Khai Trung, xã Khai Trung, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (11/12/2024)
- Di tích lịch sử cấp tỉnh đình Chạng, xã Phong Dụ Thượng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái
(05/11/2024)
- Di tích lịch sử cấp tỉnh đền Lương Nham, xã Phú Thịnh, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái (15/10/2024)
- Di tích lịch sử văn hóa Đình Đôn Giáo, xã Xuân Ái, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (30/08/2024)
- Di tích lịch sử văn hóa đền Làng Vải, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (17/06/2024)
- Di tích lịch sử văn hóa đình Lắc Mường, xã Phong Dụ Hạ, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (11/06/2024)
- Di tích lịch sử văn hóa đền Đôi Cô, xã Đông An, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (05/06/2024)
- Di tích lịch sử văn hóa Đình và Đền Tân Hợp, xã Tân Hợp, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (05/04/2024)
Xem thêm »